4 tháng đầu năm 2014, xuất siêu bằng 1,5% kim ngạch xuất khẩu
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Kim ngạch xuất khẩu tăng…

Tính chung 4 tháng năm 2014 ước đạt 45,74 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2013 (tương đương với tăng 6,61 tỷ USD), trong đó KNXK của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 15,38 tỷ USD, chiếm 33,6% tổng KNXK của cả nước, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái; KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 30,35 tỷ USD, chiếm 66,4% tổng KNXK của cả nước, tăng 17,2%, nếu không kể dầu thô KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 28,24 tỷ USD tăng 20,1% so với cùng kỳ năm 2013. Tính riêng háng 4, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) ước đạt 12,2 tỷ USD, giảm 0,6% so với tháng 3 và tăng 23,2% so với tháng 4 năm 2013, trong đó: xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 7,5 tỷ USD, giảm 0,1% so với tháng 3 và tăng 24,2% so với tháng 4 năm 2013.

Trong đó, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu, chiếm hơn 70% kim ngạch tăng thêm (Kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 4,7 tỷ USD trên tổng kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2014 của cả nước tăng thêm 6,6 tỷ USD so với cùng kỳ). Các mặt hàng có kim ngạch lớn gồm: điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,4%); giầy dép (76,7%); hàng dệt may (60%)…

Bên cạnh đó, nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung.Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 19,4%so với cùng kỳ. Đóng góp chủ yếu cho nhóm hàng này gồm: hàng dệt may, hàng giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ là các mặt hàng có kim ngạch lớn và đều có tốc độ tăng trưởng trên 20%. Nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng 14%với sự tăng trưởng khá cao của các mặt hàng thủy sản (32%), cà phê (29,5%), hạt tiêu (41,3%), rau quả (23%). Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 10,5% với sự sụt giảm cả về lượng và kim ngạch của dầu thô và than đá.

Xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản tăng 13,2% so với cùng kỳ với nhiều mặt hàng có mức tăng khá tuy nhiên giá xuất khẩu hai mặt hàng thế mạnh là cao su và cà phê giảm so với cùng kỳ. 

Biểu đồ: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC  
          VÀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Xét về giá: 4 tháng năm 2014 giá bình quân xuất khẩu của một số mặt hàng tăng như: nhân điều tăng 1,1%; chè tăng 0,7%; hạt tiêu tăng 3,7%; gạo tăng 2,1%; than đá tăng 6,4%; dầu thô tăng 0,1%; xăng dầu tăng 1,0%; quặng và khoáng sản khác tăng 89,6%; Clanhke và xi măng tăng 1,1%; xơ, sợi dệt các loại tăng 1,7%… Một số mặt hàng có giá bình quân giảm như: cà phê giảm 6,9%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 1,1%; cao su giảm 24,9%; phân bón các loại giảm 0,4%; chất dẻo các loại giảm 5,3%; sắt thép các loại giảm 9,0%… Do ảnh hưởng của giá xuất khẩu đã làm kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản giảm khoảng 207 triệu USD; nhóm nhiên liệu, khoảng sản tăng khoảng 97 triệu USD. Tính chung 2 nhóm mặt hàng do giá xuất khẩu giảm đã làm giảm 110 triệu USD KNXK.

Xét về lượng:Tính chung 4 tháng năm 2014, lượng một số mặt hàng xuất khẩu tăng so với cùng kỳ, cụ thể: nhân điều tăng 15,3%; cà phê tăng 39,1%; hạt tiêu tăng 36,3%; xăng dầu các loại tăng 5,4%; Clanhke và xi măng tăng 44,2%; chất dẻo nguyên liệu tăng 13,4%; xơ, sợi các loại tăng 22,0%; sắt thép các loại tăng 19,3%… Một số mặt hàng xuất khẩu giảm như: chè các loại giảm 11,0%; gạo giảm 3,7%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 16,1%; cao su giảm 14,8%; than đá giảm 30,4%; dầu thô giảm 11,0%; quặng và khoáng sản khác giảm 61,8%; phân bón các loại giảm 16,0%… 

Xét về thị trường:4 tháng năm 2013, xuất khẩu sang hầu hết các khu vực thị trường đều tăng (trừ một số nước Tây Âu, Đông Âu và Bắc Âu giảm 7,5%). Thị trường Châu Á ước tăng 13,6%, trong đó khu vực các nước Đông Á tăng cao nhất (tăng 20,0%), tiếp đó là thị trường các nước Tây Á (tăng 12,3%), Đông Nam Á (tăng 3,3%) và Trung Nam Á (tăng 1,8%). Thị trường Châu Âu tăng 12,1%, trong đó, hầu hết các nước có KNXK tăng trưởng khá (Ailen tăng 9,1%, Bỉ tăng 57,3%, Đan Mạch tăng 8,4%, Italia tăng 26,9%, Pháp tăng 18,8%, Tây Ban Nha tăng 23,9%, Thụy Điển tăng 9,3%, Cộng hòa Séc tăng 31,8%, Latvia tăng 35,2%, Ba Lan tăng 46,8%, Slovakia tăng 11,8%…), tuy nhiên, một số nước có KNXK giảm như: Anh giảm 1,7%, Bồ Đào Nha giảm 7,5%, Phần Lan giảm 5,6%. Thị trường Châu Mỹ ước tăng 27,8%, trong đó Hoa Kỳ tăng 26,8%, tăng cao nhất là Braxin tăng 49,0%. Thị trường Châu Phi ước xuất khẩu tăng 14,1%, trong đó, xuất khẩu sang một số thị trường giảm mạnh như: Ăngôla giảm 46,3%, Bờ biển Ngà giảm 66,4%.  

Biểu đồ: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THEO THỊ TRƯỜNG (Tr USD)

Và kiểm soát tốt những mặt hàng cần hạn chế

Trong 4 tháng vừa qua, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt gần 45,1 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2013. Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 26,3 tỷ USD, tăng 18,2%, chiếm tỷ trọng 58,3% tổng KNNK cả nước; Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt gần 18,86 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 41,7% tổng KNNK cả nước, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm 2013. Tính riêng tháng 4, kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hoá ước đạt 12,6 tỷ USD, tăng 1,0% so với tháng 3 và tăng 16,1% so với tháng 4 năm 2013, trong đó: kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước 7,4 tỷ USD, tương đương tháng 3 và tăng 22,8% so với tháng 4 năm 2013.

Xét về giá: so với cùng kỳ, giá nhập khẩu bình quân của một số mặt hàng tăng, cụ thể: hạt điều tăng 14,1%; Quặng và khoáng sản khác tăng 6,8%; khí đốt hóa lỏng tăng 3,3%; chất dẻo nguyên liệu tăng 3,5%; bông các loại tăng 2,6%… Bên cạnh đó, giá nhập khẩu bình quân của một số mặt hàng giảm: lúa mỳ giảm 13,3%; ngô giảm 24,1%; đậu tương giảm 3,7%; dầu thô giảm 1,5%; xăng dầu các loại giảm 0,3%; phân bón giảm 12,3%; cao su các loại giảm 12,5%; giấy giảm 5,9%; sắt thép các loại giảm 6,1%; kim loại thường khác giảm 0,9%; phế liệu sắt thép giảm 7,1%…

Xét về lượng: những mặt hàng tính được về lượng nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ là lúa mỳ tăng 40,1%, ngô tăng 211,6%, đậu tương tăng 56,3%, quặng và khoáng sản khác tăng 21,0%, xăng dầu các loại tăng 13,3%, khí đốt hóa lỏng tăng 9,4%, giấy các loại tăng 18,6%, bông các loại tăng 27,6%, xơ, sợi dệt các loại tăng 11,2%, kim loại thường tăng 18,1%, ô tô nguyên chiếc các loại (trừ xe dưới 9 chỗ) tăng 89,8%… Trong khi đó, một số mặt hàng lượng nhập khẩu giảm như: hạt điều giảm 14,9%, dầu thô giảm 81,3%, phân bón giảm 5,5%, thép các loại giảm 1,6%… 

Biểu đồ: NHẬP KHẨU PHÂN THEO NHÓM HÀNG 4 THÁNG NĂM 2014

 Xét về thị trường: KNNK từ Châu Á vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số các thị trường nhập khẩu của cả nước chiếm 79,8%. Trong đó, KNNK từ ASEAN chiếm hơn 16,2%, các nước Đông Á chiếm 59,2%, riêng Trung Quốc chiếm gần 27,5% trong tổng KNNK của cả nước. Về tốc độ tăng, trong 4 tháng đầu năm nhập khẩu từ thị trường Châu Mỹ tăng 38,0%, trong đó nhập khẩu từ Mỹ tăng 30,8%, tiếp đến là Châu Phi tăng 29,7%, Châu Đại Dương tăng 29,3%, Châu Á tăng 12,0%. Nhập khẩu từ Châu Âu giảm 13,3%, trong đó nhập khẩu từ Ailen, Đức, Nga, Ucraina.. giảm mạnh so với cùng kỳ (giảm trên 20,0%). Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần cho sản xuất, tiêu dùng trong nước cũng như các mặt hàng nhập khẩu phục vụ gia công, xuất khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 88,5% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhiều nhóm hàng nguyên liệu được đẩy mạnh lượng nhập khẩu khi giá nhập khẩu có xu hướng giảm.

Nhóm hàng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu một số nhóm hàng như điện thoại di động, ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ cũng có mức tăng khá cao so với cùng kỳ.

Nguồn: http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1370586?p_page_id=2202243&pers_id=2177079&item_id=127132851&p_details=1