Cần có văn bản quy định về hòa giải thương mại
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

81% doanh nghiệp chưa tham gia hòa giải

Ông Phan Trọng Đạt, Phó trưởng ban Xúc tiến Đào tạo, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC cho biết, trong số 327 doanh nghiệp tham gia khảo sát có tới 81% chưa từng tham gia hòa giải, 70% trả lời không hề quen thuộc hoặc chưa đủ quen thuộc với quy trình hòa giải thương mại. Trong số 176 doanh nghiệp cho biết lý do không tham gia hòa giải, chỉ có 14 doanh nghiệp thừa nhận do họ thiếu kiến thức về hòa giải. Tuy nhiên, số liệu này dường như chưa phản ánh đúng thực tế bởi qua khảo sát, nhiều doanh nghiệp còn nhận thức sai về hòa giải.

Khoảng 1/3 số doanh nghiệp trả lời rằng họ không biết rằng thông tin được chia sẻ trong quá trình hòa giải được giữ bảo mật, mặc dù nhiều doanh nghiệp đồng ý rằng bảo mật thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với họ trong thủ tục giải quyết tranh chấp. Khoảng 21% doanh nghiệp không biết giải pháp đạt được trong hòa giải phải được các bên tranh chấp tự mình chấp thuận chứ không thể bị áp đặt bởi hòa giải viên và gần một nửa số doanh nghiệp không biết rằng thời hiệu khởi kiện được tạm ngừng khi hòa giải bắt đầu. Hoặc thậm chí họ có quan điểm cho rằng, phải tranh chấp nghiêm trọng mới cần tới hòa giải thương mại. Tuy còn có tình trạng thiếu nhận thức về chi tiết của quy trình hòa giải cũng như hạn chế về mức độ sử dụng hòa giải trong giải quyết tranh chấp song có tới 78% doanh nghiệp muốn sử dụng hòa giải như một phương thức để giải quyết tranh chấp kinh doanh.

Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại không chỉ là mong mỏi của doanh nghiệp mà còn là yêu cầu đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong Nghị quyết 19 về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Chính phủ đã đặt Việt Nam vào bản đồ cạnh tranh của ASEAN đồng thời đề ra chỉ tiêu rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng từ 400 ngày xuống còn 200 ngày. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cùng với hoạt động cải cách tư pháp, cần nhiều phương thức hiệu quả để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có hòa giải thương mại.

Hòa giải thương mại đã được đề cập trong Bộ luật Hàng hải, Luật Thương mại, Luật Đầu tư… và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia. Tuy nhiên, những văn bản này mới chỉ ghi nhận nguyên tắc chung về việc các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải mà chưa quy định cụ thể, hướng dẫn về hòa giải viên, tổ chức hòa giải chuyên nghiệp cũng như trình tự, thủ tục hòa giải.


Cần nghị định riêng

Theo khảo sát, khoảng 19% doanh nghiệp đã sử dụng phương thức hòa giải để giải quyết các tranh chấp của mình, sau đó mới lựa chọn tòa án và trọng tài. Tuy nhiên, do chưa có khuôn khổ pháp lý điều chỉnh trực tiếp, toàn diện hoạt động hòa giải thương mại như một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập nên hòa giải thương mại chủ yếu gắn với hoạt động tố tụng của tòa án và tố tụng trọng tài. Song, số lượng tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài, tòa án còn rất thấp. Theo Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch VIAC, hình bóng của hòa giải thương mại đã từng được gửi ké trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đến này chưa có một văn bản độc lập nào quy định riêng về phương thức này.

Xây dựng nghị định riêng về hòa giải thương mại là mong mỏi của không ít doanh nghiệp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đa dạng hóa cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại. Được biết, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và đơn vị có liên quan xây dựng dự thảo nghị định về hòa giải thương mại. Dự thảo quy định về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, tiêu chuẩn cũng như quyền và nghĩa vụ của các hòa giải viên thương mại, điều kiện thành lập tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại và chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng hòa giải thương mại để giải quyết tranh chấp.

Điểm khác biệt giữa hòa giải thương mại và trọng tài là phán quyết của trọng tài mang tính ràng buộc về mặt pháp lý còn thỏa thuận hòa giải thành có được thực hiện hay không, phụ thuộc vào cam kết của các bên trong quá trình hòa giải, các bên cùng thống nhất thực hiện thỏa thuận mà họ đã đạt được với sự hỗ trợ của hòa giải viên.

Theo bà Nina Mocheva, chuyên gia quốc tế về trọng tài và hòa giải, Ngân hàng Thế giới, dự thảo nghị định cần nhấn mạnh khái niệm “thương mại” để bảo đảm những tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại phù hợp với quy định cũng như tiêu chí được đưa ra. Quy định về tranh chấp thương mại của dự thảo cũng phải đồng nhất, nhất quán với khái niệm tranh chấp thương mại tại các văn bản pháp luật khác, bảo đảm cho nội hàm của từ thương mại đủ rộng để bao quát hết những tranh chấp có liên quan.

Nhiều chuyên gia nhận định, dự thảo cần nghiên cứu những quy định hướng dẫn luật mẫu về hòa giải của Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đối với những trường hợp nằm ngoài phạm vi của hòa giải thương mại như thỏa ước tập thể, giao dịch của người tiêu dùng hay những tranh chấp liên quan tới đất đai. Có như vậy, dự thảo được ban hành mới thể chế hóa được đầy đủ những cam kết của Việt Nam trong WTO về hòa giải thương mại.

Thảo Mộc
Nguồn: Báo điện tử Đại biểu nhân dân