Gồm 4 chương, 42 điều, Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Chín, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thông qua xây dựng cơ chế pháp lý mới về hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Luôn tôn trọng sự tự nguyện của các bên
Giới thiệu về nội dung cơ bản của Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án, Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao Tống Anh Hào cho biết, về phạm vi điều chỉnh, Luật quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại tòa án; trách nhiệm của tòa án đối với hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại tòa án.
Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án không điều chỉnh các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được quy định ở các luật khác.
Về nguyên tắc hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Điều 3 của Luật này quy định 9 nguyên tắc, trong đó ba nguyên tắc cơ bản nhất là tự nguyện, bảo mật thông tin và linh hoạt. Cụ thể, Luật quy định hòa giải, đối thoại tại tòa án là hoạt động trước tố tụng nhưng không mang tính bắt buộc; người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đồng ý hoặc không đồng ý giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính bằng cơ chế hòa giải, đối thoại tại tòa án; nếu không đồng ý thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Trong quá trình hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên phải luôn tôn trọng sự tự nguyện của các bên; các nội dung thỏa thuận, thống nhất phải phản ánh đúng ý chí của các bên tham gia hòa giải, đối thoại; tuyệt đối không được đe dọa, ép buộc các bên thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ.
Về nguyên tắc bảo mật thông tin, khoản 5, Điều 3 quy định, các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại phải được giữ bí mật, trừ trường hợp bên đã xuất trình tài liệu, trình bày ý kiến trong quá trình hòa giải, đối thoại đồng ý việc sử dụng tài liệu, lời trình bày của mình trong quá trình hòa giải, đối thoại làm chứng cứ hoặc phải sử dụng làm chứng cứ theo quy định của Luật. Việc giữ bí mật đối với các thông tin trong quá trình hòa giải, đối thoại là yêu cầu bắt buộc; giúp các bên dễ dàng cởi mở chia sẻ thông tin, hòa giải viên dễ tìm ra nguyên nhân phát sinh tranh chấp, những mâu thuẫn chủ yếu cần giải quyết… Đồng thời, Hòa giải viên sẽ thiết lập được mối liên hệ tốt với các bên tranh chấp, giúp việc tiến hành hòa giải, đối thoại thuận lợi hơn.
Đặc điểm nổi bật của cơ chế hòa giải, đối thoại tại tòa án là phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc. Việc tiến hành hòa giải, đối thoại không bị gò bó theo trình tự, thủ tục chặt chẽ như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính mà Thẩm phán phải tuân theo khi tiến hành hòa giải, đối thoại trong tố tụng. Trong quá trình hòa giải, Hòa giải viên được điều chỉnh phương pháp, thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải phù hợp với điều kiện của các bên nhằm đạt được kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.