Giải pháp nào nâng cao tính thống nhất của hệ thống pháp luật?
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Quan niệm về bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Về tính thống nhất: Tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) và quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, cho nên để bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các thành tố cấu tạo nên nó không được có sự mâu thuẫn, chống chéo với nhau. Bất cứ một sự mâu thuẫn, chồng chéo nào xảy ra trong hệ thống pháp luật đều phải được phát hiện và loại khỏi hệ thống.

Hệ thống VBQPPL – biểu hiện cụ thể của hệ thống pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp. Như vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi nội dung chính sách phải nhất quán trong toàn hệ thống VBQPPL, các VBQPPL, các quy phạm pháp luật phải phù hợp, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.

Để bảo đảm tính thống thất của hệ thống pháp luật với các yêu cầu nêu trên thì phải tập trung vào 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn trước khi VBQPPL được ban hành: Đây chính là giai đoạn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các công việc như soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, lấy ý kiến, xem xét, thông qua hoặc ký ban hành văn bản. Ở giai đoạn này văn bản đang được dự thảo, do đó các yêu cầu liên quan đến việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cần được xem xét kỹ cả về tính thống nhất giữa văn bản với hệ thống pháp luật và tính thống nhất trong nội tại văn bản để văn bản sau khi được ban hành hoặc ký thông qua bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Giai đoạn sau khi VBQPPL đã được ban hành: Đây là giai đoạn văn bản quy phạm pháp luật đã được nhập vào và trở thành một bộ phận của hệ thống pháp luật. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất của toàn hệ thống pháp luật đòi hỏi phải thực hiện việc rà soát, kiểm tra văn bản cũng như các quy định có liên quan nhằm phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo để kịp thời sửa đổi hoặc loại bỏ ra khỏi hệ thống pháp luật.

1. Yêu cầu khách quan đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật:

Việc thực hiện cơ chế bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta, từng bước góp phần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cần phải được chú trọng và nâng cao hơn.

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Hiến pháp và luật giữ vai trò tối thượng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để thực hiện vai trò quyền lực của mình, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước phải trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Theo đó, nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu không chỉ người dân mà cả các cơ quan nhà nước và công chức cũng phải “Sống và làm việc theo pháp luật”. Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật phải được ban hành đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội làm cơ sở để cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức dựa vào đó mà thực hiện nhiệm vụ của mình; người dân dựa vào đó mà thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Có như vậy mới bảo đảm được tiêu chí xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó Hiến pháp là tối thượng, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật phải triệt để phù hợp với quy định của Hiến pháp.

Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương ban hành gồm nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau với phạm vi điều chỉnh rộng lớn, toàn diện về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy để pháp luật được mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi cả nước thì trước hết hệ thống pháp luật phải bảo đảm được tính thống nhất trong chính nội tại của nó. Nếu một hệ thống pháp luật không thống nhất, giữa các bộ phận cuả nó chứa đựng các quy định mâu thuẫn, chồng chéo thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Vì vậy, đòi hỏi phải kịp thời phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của pháp luật để loại bỏ ra khỏi hệ thống pháp luật.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này dẫn đến những thay đổi nhanh chóng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, kéo theo sự đòi hỏi sự sửa đổi luật pháp cho phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Sự sửa đổi luật pháp vì thế rất dễ tạo nên những mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp giữa các quy định mới với các quy định khá trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu về mặt thể chế đặt ra phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với những sửa đổi của luật pháp là hết sức cần thiết và quan trọng.

Thứ ba, xuất phát từ những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến việc Nhà nước ta tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, các điều ước quốc tế cũng như các thoả thuận quốc tế. Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế, các điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế, chúng ta có nghĩa vụ phải tuân thủ đầy đủ các cam kết quốc tế của mình, trong đó có nghĩa vụ sửa đổi pháp luật cho tương thích. Vì thế việc rà soát hệ thống pháp luật để loại bỏ những quy định mâu thuẫn, gây cản trở cho việc thực hiện các cam kết quốc tế, cũng như việc sửa đổi luật pháp cho tương thích với các cam kết, nhất là đối với các cam kết của chúng ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, điều ước quốc tế đa phương là việc làm cần thiết nhằm tăng cường vị thế và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

Thứ tư, từ thực tiễn hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu tính thống nhất. Tình trạng này không chỉ tồn tại đối với các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật mà ngay cả đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật vì nhiều lý do khác nhau cũng tiềm ẩn những yếu tố xâm phạm đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Điều này thể hiện ở việc có không ít văn bản được ban hành chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất; văn bản do cơ quan cấp dưới ban hành không phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên hoặc các văn bản cùng loại có những quy định chưa được thống nhất với nhau. Những mâu thuẫn này đã và đang tạo nên những rắc rối về mặt pháp lý không chỉ đối với người dân mà ngay cả đối với cán bộ, công chức nhà nước cũng không biết là phải dựa vào quy định nào của pháp luật để thực thi công vụ trong các trường hợp quy định của pháp luật có sự mâu thuẫn, chồng chéo và trùng lắp.

Thứ năm, xuất phát từ chính yêu cầu nội tại của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Như trên đã phân tích, tính thống nhất của hệ thống pháp luật là một đặc trưng, một yêu cầu không thể thiếu được của hệ thống pháp luật. Chính tính hệ thống của hệ thống pháp luật đã đặt ra yêu cầu phải loại bỏ ra khỏi hệ thống những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp với nhau. Bên cạnh đó, nhu cầu tự hoàn thiện là nhu cầu tất yếu của mọi thiết chế, kể cả hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, muốn điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách có hiệu quả cao thì các quy định của pháp luật trong hệ thống pháp luật phải có sự thống nhất với nhau và phù hợp với thực tiễn. Do đó, bản thân các quy định của pháp luật cũng phát sinh nhu cầu phải sửa đổi cho phù hợp, thống nhất. Vì vậy, có thể khẳng định rằng yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cũng xuất phát từ chính yêu cầu nội tại của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, việc bảo đảm tính thống nhất là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, do đó cần phải nâng cao hiêu quả của việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Đây cũng chính là mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị về chíên lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 “ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thồng nhất…”.

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Để bảo đảm tính tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản dưới luật, pháp lệnh đối với hệ thống pháp luật là vấn đề lớn, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan cũng như sự phối hợp đồng bộ từ cơ quan xây dựng, soạn thảo, thẩm định ban hành cho đến cơ quan kiểm tra, giám sát, rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Do đó cần phải hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động các chủ thể trực tiếp tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

2.1. Tiếp tục đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta đã được đơn giản hoá một bước kể từ khi ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 nhưng vẫn còn gần 20 loại văn bản khác nhau, trong đó có tình trạng một số cơ quan được ban hành nhiều loại văn bản khác nhau; mỗi loại văn bản lại có thể do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luât càng được quy định đơn giản thì càng tạo thuận lợi trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Ở nước ta trước đây, theo quy định của Hiến pháp năm 1946, các cơ quan Nhà nước cũng chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật với các hình thức Hiến pháp, luật, sắc luật, sắc lệnh, nghị quýêt. Không những thế, nhiều hình thức văn bản đồng thời vừa được dùng để ban hành văn bản quy phạm lại vừa được dùng để ban hành văn bản áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ việc cụ thể.

Những thực tế trên đây làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật rất phức tạp, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật gặp không ít khó khăn. Việc quy định khá nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dễ bị chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu sự phân công, phân nhiệm rõ ràng về thẩm quyền.

Vì vậy, cần thu gọn các loại văn bản chứa quy phạm pháp luật nhằm làm cho hệ thống pháp luật đơn giản hơn, tạo thuận lợi cho việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận, thuận lợi cho công tác thi hành và áp dụng pháp luật. Việc đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật giúp cho việc phân biệt rõ hơn văn bản quy phạm pháp luật với các loại văn bản pháp luật khác (văn bản điều hành, văn bản áp dụng, văn bản hành chính); đồng thời, tạo điều kiện cho việc xác định rõ trật tự hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và phù hợp với thông lệ lập pháp quốc tế. Theo đó, tiếp tục đơn giản hoá hệ thống văn bản pháp luật theo nguyên tắc mỗi cơ quan chỉ nên ban hành một loại hình văn bản quy phạm pháp luật cụ thể: Quốc hội ngoài Hiến pháp thì ban hành Luật; Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ ban hành pháp lệnh và về lâu dài nên bỏ hình thức ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ ban hành Quyết định …

2.2 Hạn chế tình trạng ban hành “luật khung”

Theo quy định tại khoản 1 Điêù 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định “Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay; trường hợp trong văn bản có điều, khoản mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao thì ngay tại điều, khoản đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền tiếp”, nhưng trên thực tế vẫn xảy ra không ít các trường hợp vẫn quy định theo hướng “luật khung” còn để lại giao cho các cơ quan khác quy định cụ thể. Vì vậy, để tránh tình trạng các văn bản do cơ quan cấp dưới ban hành trái hoặc mâu thuẫn với văn bản do cơ quan cấp trên thì khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật các cơ quan cấp trên cần cố gắng đưa ra những quy định cụ thể để có thể thi hành được ngay, không cần có các văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành.

Đối với các văn bản quy định chi tiết thì chỉ nên quy định trong một văn bản mà không nên ban hành nhiều văn bản để quy định cụ thể về những nhóm vấn đề khác nhau được giao cho cùng một cơ quan có thẩm quyền ban hành. Việc soạn thảo, ban hành văn bản như vậy sẽ góp phần làm cho hệ thống pháp luật được đơn giản hoá và minh bạch hơn, đồng thời bảo đảm tính thống nhất cao trong hệ thống pháp luật.

2.3. Áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản

Việc dùng một văn bản để sửa nhiều văn bản là một quy định tiến bộ của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó có thể tiến hành việc sửa đổi nhiều văn bản ngay trong một văn bản thay vì phải sửa đổi lần lượt từng văn bản. Chính vì vậy, với việc áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản cho phép một cơ quan khi sửa đổi một quy định của pháp luật sẽ đồng thời sửa ngay những quy định có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật khác do mình ban hành để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định mới với với hệ thống pháp luật, tránh xảy ra các trường hợp mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp với các quy định cũ trong hệ thống pháp luật. Chỉ trong trường hợp không thể sửa ngay được các văn bản khác vì lý do khách quan, việc sửa đổi phức tạp thì phải xác định rõ danh mục văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi văn bản quy phạm pháp luật mới có hiệu lực để bảo đảm pháp luật được thống nhất của hệ thống pháp luật.

Việc áp dụng dùng một văn bản để sửa đổi nhiều văn bản có nhiều ưu điểm nhưng nếu quá lạm dụng mà không có sự chuẩn bị thảo luận kỹ trước khi thông qua sẽ dẫn đến tình trạng chất lượng văn bản được ban hành hạn chế, tạo nên mâu thuẫn, chồng chéo mới giữa các quy định trong hệ thống pháp luật. Do đó, để áp dụng có hiệu quả cần phải đặt ra các tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Một văn bản gốc có thể bị sửa đổi bởi nhiều văn bản khác nhau cho nên nếu việc rà soát không kỹ dẫn đến bỏ lọt các quy định cũ mà không sửa đổi đồng thời được cùng với các quy định mới, tạo nên mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định mới và cũ. Do đó, việc áp dụng phương thức một văn bản sửa đổi nhiều văn bản chỉ phát huy được tối đa tác dụng bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong điều kiện chúng ta tiến hành pháp điển hoá hệ thống quy phạm pháp luật. Khi đó mọi quy định sau khi được sửa đổi và có hiệu lực sẽ được cập nhật ngay vào các bộ pháp điển và do đó trong các lần sửa đổi sau chỉ cần rà soát trên bộ pháp điển hoá.

2.4. Hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng nâng cao hiệu quả bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Việc nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật ở giai đoạn xây dựng, ban hành văn bản sẽ giúp tránh khỏi để xảy ra những văn bản “còn sạn” những quy định không phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, mâu thuẫn, chồng chéo, cụ thể cần:

Tập trung công tác soạn thảo dự án luật, pháp lệnh vào một đầu mối cơ quan là Bộ Tư pháp hoặc một thiết chế khác trực thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan soạn thảo chuyên trách). Đây là cơ quan thuần tuý mang tính chuyên môn pháp lý, sử dụng các kỹ thuật lập pháp để soạn thảo dự án luật. Việc đổi mới công tác soạn thảo luật, pháp lệnh như vậy sẽ tăng cường tính chuyên môn hoá ở từng khâu, từng công đoạn trong quá trình soạn thảo luật, pháp lệnh.

Tăng cường chất lượng của công tác thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; trong thẩm định thẩm tra phải đặc biệt chú ý đến thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan ngang cấp và không mâu thuẫn trong nội tại văn bản; các chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần kiên quyết không xem xét, thông qua hoặc ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi trong hồ sơ dự án, dự thảo văn bản chưa có báo cáo thẩm định, thẩm tra.

Nâng cao năng lực và hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban pháp luật trong việc bảo đảm tính tính thống nhất của các dự án luật, pháp lệnh đối với hệ thống pháp luật.

2.5 Nâng cao hiệu quả của công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta với một số lượng lớn đồ sộ các văn bản dưới luật, pháo lệnh, các văn bản này lại do rất nhiều các chủ thể khác nhau ban hành dưới nhiều hình thức văn bản khác nhau.

2.6 Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các hoạt động: Hoạt động tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hoạt động kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp dưới;… Hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục đích phát hiện ra những văn bản quy phạm có nội dung không bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật để kịp thời xử lý xử lý, loại bỏ ra khỏi hệ thống pháp luật.

2.7 Xây dựng thiết chế tài phán đối với các văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu không bảo đảm tính thống nhất đối với hệ thống pháp luật

Hoạt động, giám sát kiểm tra nhằm phát hiện những văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, mâu thuẫn, chồng chéo không đem lại nhiều hiệu quả, kể cả khi phát hiện ra những trường hợp văn bản có dấu hiệu sai trái thì việc xử lý cũng ít khi được thực hiện. Điều đó dẫn đến những quy định sai trái đó vẫn có hiệu lực. Vì vậy cần thiết phải có thiết chế tài phán để xem xét, ra phán quyết đối với các văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu không bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Đây là việc làm cần thiết nhằm loại bỏ triệt để những quy định của pháp luật mâu thuẫn chồng chéo tồn tại trong hệ thống pháp luật.

2.8 Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm của lãnh đạo các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo đảm tính tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật là nơi thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, phục vụ cho mục tiêu quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Một văn bản quy phạm pháp luật sai trái dẫn đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng không đi vào cuộc sống, mục tiêu quản lý nhà nước, quản lý xã hội không đạt được, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, làm cho hệ thống pháp luật thiếu tính thống nhất gây nên những rủi ro pháp lý cho cả đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản cũng như bản thân cán bộ, công chức là người áp dụng các văn bản đó. Chính vì vậy, cần phải làm cho lãnh đạo các cơ quan, tổ chức tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật cũng như ý nghĩa của việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

2.9 Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cần rà soát lại các quy định có liên quan về bảo đảm tính thống nhất của hệ thông pháp luật để lược bỏ đi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, đưa ra một quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật khoa học, chẹt chẽ, bảo đảm chất lượng và có tính khả thi cao. Trước mắt cần tiến tới hợp nhất Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND vào Luật ban hành văn bản QPPL chung; ban hành Luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án Hiến pháp, Luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh Pháp điển hoá hệ thống quy phạm pháp luật, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác cho thống nhất và phù hợp với việc ban hành các đạo luật mới.

2.10 Đổi mới tổ chức, đầu tư nguồn nhânn lực và kinh phí hoạt động cho các thiết chế trực tiếp tham gia vào việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Về tổ chức và nguồn nhân lực: Các thiết chế trực tiếp tham gia vào việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật bao gồm nhiều cơ quan như: cơ quan soạn thảo, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra, cơ quan cho ý kiến, cơ quan xem xét thông qua hoặc ký ban hành văn bản. Để các thiết chế này hoạt động có hiệu quả, cần thiết phải đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động; thực tiễn cho thấy nguồn kinh phí cho hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát, kiểm tra, rà soát VBQPPL chưa được bố trí tương xứng với tính chất và tầm quan trọng của công việc mà các cơ quan đảm nhiệm. Do đó cần có cơ chế tiền lương, chế độ, chính sách, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ để có thể thu hút những chuyên gia giỏi và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan này.

Để nâng cao chất lượng thẩm tra, chỉnh lý các dự án luật, pháp lệnh, tăng cường và nâng cao hiệu qủa của công tác giám sát việc ban hành văn bản dưới luật, pháp lệnh thì một mặt cần nghiên cứu chia tách, thành lập mới một số uỷ ban của Quốc hội để bảo đảm sự chuyên sâu, mặt khác để các cơ quan của Quốc hội có điều kiện tập trung thời gian cũng như nguồn nhân lực cho việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; thực hiệc việc kiện toàn cơ cấu tổ chức theo hướng tăng hợp lý tỷ lệ thành viên có trình độ chuyên môn sâu về pháp luật trong từng lĩnh vực; tăng số lượng thành viên chuyên trách đồng thời có cơ chế bảo đảm để các thành viên hoạt động kiêm nhiệm có thời gian điều kiện tối đa tham gia hoạt động. Bên cạnh đó, cần tăng cường cả về số lượng cũng như chất lượng của đội ngũ giúp việc các Ủy ban để có thể nghiên cứu, tham mưu có hiệu quả cho các cơ quan của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Về đầu tư kinh phí: Hiện nay vấn đề kinh phí cho hoạt động xây dựng pháp luật còn nhiều bất cập, nhiều cơ quan chưa chú trọng đầu tư kinh phí cho hoạt động này dẫn đến kinh phí cho hoạt động này chưa hạch toán vào kinh phí phục vụ nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan nhà nước hoặc nếu có thì ở mức thấp. Cụ thể việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thì kinh phí chủ yếu do các Bộ , ngành tự xoay sở, Quốc hội nếu có thì cũng chỉ là kinh phí hỗ trợ xây dựng pháp luật cho nên điều này cũng làm văn bản được ban hành kém chất lượng, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật không được bảo đảm. Vì vậy, cần đổi mới cơ chế cấp phát kinh phí cho hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát, kiểm tra, rà soát VBQPPL theo hướng coi chi cho hoạt động này là chi cho “đầu tư phát triển” phải được dự toán hàng năm vào mục chi thường xuyên của các thiết chế này và phải được Quốc cũng như các cơ quan có thẩm quyền quyết định theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Nguyễn Đình Thơ – Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Nguồn: Cổng thông tin Bộ Tư pháp