Kinh tế những tháng đầu năm 2012: Nửa mừng nửa lo
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Những điểm sáng đáng quý

 Thực tế Việt Nam 3 tháng đầu năm 2012 cho thấy những tín hiệu khả quan nhất định về kiềm chế lạm phát (so với tháng trước, CPI tháng 1/2012 đã tăng 1% và tháng 2/2012 tăng 1,37% – tức bằng mức cùng kỳ năm 2009, nhưng là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua, tháng 3/2012 CPI chỉ tăng 0,16% là mức tăng thấp nhất trong vòng gần 2 năm qua, tăng 2,55%; so với tháng 12/2011 và tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước); giảm nhập siêu (nhập siêu khoảng 300 triệu USD, bằng khoảng 1,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm gần đây), cải thiện cơ cấu chất lượng thu hút FDI cả về nguồn vốn và lĩnh vực thu hút (FDI giải ngân là 400-600 và 1500 triệu USD), đấu thầu thành công trái phiếu CP khả quan hơn nhiều so với năm trước (đấu thầu thành công tới 5900/7000 tỉ đồng trái phiếu. Phiên ngày 16/2/2012 và trong quý 1/2012 đã  phát hành được trên 9000 tỉ đồng trái phiếu CP); sản xuất điện (tăng 15,1%), khai thác dầu thô (tăng 10,3%), phát triển nông nghiệp…

 Ngoài ra, những dấu hiệu cải thiện về tính thanh khoản ngân hàng và dự trữ ngoại hối cũng được ghi nhận. Trong 2 tháng đầu năm 2012, theo NHNN, dự trữ ngoại hối  đã tăng 20%, trong khi tỷ giá vẫn ổn định. Những tín hiệu về cải thiện thanh khoản trên thị trường ngân hàng được phản ánh đậm nét qua việc phát hành thành công trái phiếu chính phủ trong 2 tháng đầu năm; Lượng trái phiếu chính phủ mà các tổ chức nắm giữ tăng khoảng 10,5% .

Hơn nữa, cơ hội giảm lãi suất lần này còn được hỗ trợ tích cực bởi động thái mới của NHNN là chia các ngân hàng thương mại thành 4 nhóm với các mức tăng hạn mức tín dụng khác nhau, trong đó nhóm 4 (kém nhất về thanh khoản) sẽ không được phép mở rộng tín dụng ít nhất trong 6 tháng bị xếp hạng.

Đồng thời, NHNN cũng bảo đảm tái cấp vốn cho các NHTM thời hạn từ 3 – 6 tháng, trên cơ sở NHTM đó thế chấp các hồ sơ vay chất lượng tốt để bảo đảm thanh khoản với mức tối đa bằng vốn điều lệ… Với chính sách “cây gậy và củ cà rốt” này, các NHTM sẽ được chống lưng khá mạnh và bị răn đe khá nghiêm khắc để không bị hút vào vòng xoáy ganh đua huy động và cho vay thiếu lành mạnh vốn như thời gian trước; đồng thời, có động lực cố gắng thể hiện và “khép mình” hơn sao cho không bị rơi vào nhóm xếp hạng tín nhiệm kém, ‘mất chỗ làm ăn”…

Thực tế cũng cho thấy, thị trường tiền tệ những tháng đầu năm 2012 đang diễn ra theo chiều hướng thuận lợi, với mức trần huy động về cơ bản không quá 14% và đã có sự giãn cách lãi suất theo thời hạn, với lãi suất 1-2 tuần chỉ ở mức 6-7%, còn lãi suất 1-12 tháng cũng chỉ 14%. Đặc biệt, 9 tổ chức tín dụng có tình hình tài chính yếu kém, đang bị NHNN kiểm soát chặt chẽ để tái cơ cấu lại. Các tổ chức này chỉ chiếm chưa đến 10% trong họat động của toàn hệ thống ngân hàng. Qua một thời gian chấn chỉnh, thị phần của họ hiện chỉ khoảng 6%. Nhờ đó, ngày càng nhiều NHTM ổn định được thanh khoản.

Đặc biệt, CPI bình quân quý 1/2012 thấp xa so với tốc độ tăng bình quân quý 1 trong 8 năm trước (tăng 4,41%). CPI tháng 3/2012 là tháng thứ 7 liên tiếp tăng chậm lại so với tháng 12/2010 (tháng 8/2011 tăng 23,02%; tháng 9/2011 tăng 22,42%; tháng 10/2011 tăng 21,59%; tháng 11/2011 tăng 19,83%; tháng 12/2011 tăng 18,13%; tháng 1/2012 tăng17,27%; tháng 2/2012 tăng 16,44%, tháng 3/2012 tăng 14,15%).

Điểm mới tích cực nữa là CPI lương thực sau Tết giảm nhẹ (0,41%), cước bưu chính viễn thông tiếp tục xu hướng liên tục giảm (0,16%). Giá cả một số hàng tiêu dùng trong siêu thị được giảm bớt nhờ đợt “khuyến mại trái mùa” của một số siêu thị những tháng sau Tết, giúp người nghèo dễ thở hơn trong gánh nặng cơm áo hàng ngày.

Thực tế những tháng đầu năm đang cho thấy, khả năng hiện thực hóa mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2012 xuống 1 con số được xác lập bởi những nhân tố tích cực, như: nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, giảm bớt khối lượng và nâng cao hiệu quả đầu tư công; xúc tiến đổi mới mô hình và cơ chế phát triển; sự dồi dào của các nguồn hàng hóa và lao động; sự năng động và bản lĩnh thương trường của đội ngũ doanh nghiệp; vị thế quốc tế và lòng tin của thế giới đối với tiềm năng phát triển trung và dài hạn của Việt Nam ngày càng được củng…

Biểu đồ mức tăng bình quân CPI quý 1 hàng năm giai đoạn 2004-2012

Những khoảng tối đáng ngại

Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy đang đậm dần lên một số dấu hiệu bất ổn kinh tế đáng lo ngại, mà nổi bật là ở khu vực doanh nghiệp trong nước, với con số ngày càng nhiều doanh nghiệp dừng hoạt động, thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng chất, không nộp thuế và thu hẹp sản xuất-kinh doanh do lãi suất vốn vay cao, hàng tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu khó khăn trong khi sức mua và thị phần trong nước thu hẹp…

Theo TCTK, bước sang quý I/2012,  GDP ước đạt 4% – thấp hơn so cùng kỳ nhiều năm trước (năm 2011, GDP của Việt Nam tăng 5,89% so với năm 2010, trong đó quý I tăng 5,57%; quý II tăng 5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,53% và khu vực dịch vụ tăng 6,99%).

Điều đáng ngại là mức tăng GDP công nghiệp quá thấp (2,94%), chỉ xấp xỉ mức tăng của nông nghiệp (2,84%) và chỉ nhỉnh hơn chút ít ½ mức tăng của dịch vụ (5,31%). Chỉ số công nghiệp cộng dồn so với cùng kỳ từ tháng 7-12/2011 và 3 tháng đầu năm 2012 đi xuống một cách đều đặn, trong đó nhiều ngành có tỷ trọng đóng góp trong tổng giá trị sản xuất cao thì lại tăng trưởng âm.

Một số nhóm hàng chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu  như dệt may, giày dép và có độ phụ thuộc cao vào nguyên vật liệu nhập ngoại… thì nhập khẩu các nguyên vật liệu đầu vào của nhóm hàng này trong các tháng đầu năm 2011giảm mạnh cho thấy khó khăn trong tìm kiếm thị trường xuất khẩu thời gian tới.

 So với quý 1/2011, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ (giá thực tế) tăng 21,8%, trong khi mức CPI vẫn còn tăng tới 15,95% (nếu loại trừ yếu tố tăng giá chỉ tăng thấp gần bằng một nửa tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước); nhập khẩu doanh nghiệp trong nước bằng 89,1%; giá nguyên liệu sản xuất tăng 2,31%; giá nhập khẩu nói chung giảm -1,04%; giá xuất khẩu giảm -1,75%; trong khi cước vận tải tăng tới 5,94%, còn khối lượng vận tải hàng hóa giảm -3,6%; Lượng gạo xuất khẩu mới bằng một nửa cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hiện đã tăng 17,4% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là chế biến và bảo quản rau quả (tăng 80,6%); sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ (tăng 71,9%); sản xuất xi măng, vôi, vữa 9tăng 68,1%); sản xuất sắt, thép (tăng 53,4%.).

Theo Bộ KH&ĐT, Tổng cục TK, VCCI, Tổng cục Thuế và báo cáo của các địa phương, đến 21/3/2012, cả nước có số DN đăng ký mới giảm 8% về lượng,12% về vốn đăng ký so với cùng kỳ, tương ứng đạt trên 15,3 nghìn doanh nghiệp và 74,6 nghìn tỉ đồng.

Nhưng có trên 2,2 nghìn DN giải thể và trên 9,7 nghìn DN ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện nghĩa vụ thuế, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước. Riêng doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể tăng 57%. Chỉ tính 2 tháng đầu năm 2012, TP.Hà Nội đã có 169 DN làm thủ tục giải thể, gấp 4,3 lần cùng kỳ năm 2011. Còn TP.HCM có 526/931 DN trong danh sách đã hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm trước; 5.012 DN ngừng hoạt động; 1.725 đơn vị chờ làm thủ tục giải thể, phá sản; 1.198 doanh nghiệp đã bỏ trốn, mất tích; 1.136 đơn vị tạm ngừng có thời hạn…

Theo Cục Thuế TP.HCM, trong 2 tháng đầu năm 2012, TP HCM có hơn 3.100 doanh nghiệp xin giải thể, ngừng kinh doanh hoặc tạm ngừng kinh doanh, tăng 4,6 lần cùng kỳ 2011. Hiệp hội doanh nghiệp TP.HCM cho biết, chỉ còn khoảng 30% doanh nghiệp có đầu tư cho phát triển; số còn lại tạm ngưng đầu tư (60-70%). Tại Q.8, TP.HCM, số doanh nghiệp còn hoạt động trên địa bàn chỉ còn khoảng 50% so với 5 năm trước.

 Mối lo phá sản gia tăng ở mọi ngành và doanh nghiệp, nhất là trong ngành kinh doanh BĐS, ngành thép, ngành Điều và chế biến thủy sản. Không ít doanh nghiệp chuyển sang “buôn chuyến”, từ sản xuất chuyển qua làm thương mại, nhập hàng bán ở nội địa, lấy ngắn nuôi dài, hoạt động cầm chừng nuôi nhân sự; không còn tâm trí và năng lượng thúc đẩy tái cấu trúc theo chiều sâu như kêu gọi của Chính phủ và đòi hỏi của thực tiễn cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt…

Đặc biệt, những khó khăn cho doanh nghiệp và hệ quả tiêu cực của lãi suất cho vay ngân hàng cao càng nặng nề hơn trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đang đối diện với sự cạnh tranh và thôn tính chủ động, có bài bản, được khuyến khích bởi Chính phủ Trung Quốc.

Trên thực tế, vừa duy trì thương mại tiểu ngạch, doanh nghiệp Trung Quốc còn sang Việt Nam mở cửa hàng, kho hàng và kết hợp với doanh nghiệp, tiểu thương Việt Nam để trở thành nhà phân phối cho chính hàng hóa của mình. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đang xúc tiến việc mua lại các xưởng, nhà máy của doanh nghiệp Việt Nam thua lỗ, để có thể hưởng thuế ưu đãi trong nước từ việc khai báo lỗ này, đồng thời nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, nhất là thủy sản và để xuất khẩu hàng Trung Quốc vào Việt Nam càng nhiều càng tốt. Để tăng sức cạnh tranh cho hàng và doanh nghiệp của mình, Chính phủ Trung Quốc áp dụng hoàn thuế giá trị gia tăng 17% cho tất cả mặt hàng xuất khẩu; hỗ trợ vay vốn lãi suất chỉ từ 1-2% cho đầu tư xây dựng nhà máy, công xưởng. Thậm chí công ty Việt Nam có văn phòng tại Trung Quốc, mua hàng của Trung Quốc xuất về Việt Nam cũng được hưởng ưu đãi này. Theo đó, chỉ cần mua hàng, nguyên vật liệu của Trung Quốc phục vụ xuất khẩu, doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất 0% cho 30% giá trị đơn hàng…

Vì vậy, theo nhiều dự báo, đến cuối quý 2/2012, làn sóng doanh nghiệp trong nước phá sản, dừng hoạt động và không nộp thuế sẽ tiếp tục gia tăng vì không có đơn hàng hoặc không chịu nổi chi phí vốn cao trực tiếp và gián tiếp làm tăng áp lực thất nghiệp và an sinh xã hội, giảm thu nhập, giảm sức mua thị trường và căng thẳng cân đối NSNN như một vòng xoáy lặp lại với mức độ ngày càng cao.

Báo cáo ngày 1/3/2012 của Tổng cục Thuế cho thấy, tình hình nợ thuế năm 2011tăng 29,5% so với năm 2010 và năm 2010 tăng 17,9% so với 2009. Một số địa phương có nợ năm 2011 tăng trên 50% so với năm 2010 như An Giang, Bắc Ninh, Bình Phước, Nghệ An, Phú Thọ, Quảng Ngãi, Tây Ninh…Bước sang quý 1/2012 mức thu thuế của nhiều địa phương mới đạt trên dưới 50% so cùng kỳ năm ngoái. Một số DN có số nợ thuế hàng chục, trăm tỉ đồng, thời gian kéo dài. Từng được Hiệp hội Cà phê thế giới xếp hạng công ty xuất khẩu đơn lẻ lớn nhất toàn cầu, nhưng hiện Vinacafe Buôn Ma Thuột nợ khó trả gần 2.000 tỉ đồng…

Nút thắt là cần áp lại trần và sớm hạ lãi suất cho vay thực tế

Nếu như giảm dần tốc độ tăng trưởng kinh tế như là kết quả một phần bởi sự chủ động của Chính phủ trong nhận thức và thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ thắt chặt để ưu tiên kiềm chế lạm phát, thì hạ lãi suất với tư cách là giải pháp hàng đầu tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp dường như vẫn đang bị thực hiên có tính hình thức, thậm chí “đánh trống bỏ dùi”…

Thực tế cho thấy, yêu cầu gay gắt hạ lãi suất cho vay trước hết được quy định bởi áp lực phá sản từ phía các doanh nghiệp do lãi suất cao kéo dài. Số lượng doanh nghiệp thua lỗ, phá sản đã, đang và sẽ còn tăng mạnh vì lãi suất cho vay nhìn chung vẫn ở mức trên dưới 20%/năm – tức cao hàng đầu thế giới như hiện nay. Chi phí vốn cao và khó khăn thị trường khiến hàng hóa không tiêu thụ được; kéo theo tình trạng chiếm dụng tiền thuế làm vốn kinh doanh, chiếm dụng vốn lẫn nhau và các hệ quả đa dạng kinh tế-xã hội khác như đã nêu trên.

Hơn nữa, yêu cầu về hạ lãi suất cho vay còn nhằm sự bảo đảm công bằng và nâng cao trách nhiệm xã hội của các ngân hàng thương mại trong so sánh với các doanh nghiệp khác. Điều này dễ nhận thấy khi so sánh chệnh lệch lãi suất đầu vào (14-17%) và đầu ra (22-25%) của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua rất cao, chưa từng có tiền lệ (từ 8 – 10% trong khi chỉ cần 2,5-3% là đủ bù đắp các hoạt động kinh doanh của ngân hàng); do đó đang mang lại những món lợi siêu khủng hàng ngàn tỉ đồng, kéo theo mức lương, thưởng trung bình của các đại gia ngân hàng trở thành nỗi buồn xã hội khi so với đa số các doanh nghiệp khác đang sống lay lắt và người lao động của họ đang hưởng mức lương còm cõi.

 Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội công bố giữa tháng 1/2012 cho thấy, với viên chức quản lý, cán bộ ngành ngân hàng, tài chính, bảo hiểm được trả lương cao nhất, trung bình gần 16 triệu đồng/người, gấp 1,5 lần so với công nghiệp khai thác, chế biến và gấp đôi ngành xây dựng. Số liệu từ báo cáo tài chính quý 4/2011 của một số ngân hàng vừa công bố hé mở mức thu nhập cực “khủng” của nhân viên thuộc ngành ngân hàng.

 Cụ thể, thu nhập bình quân hàng tháng của nhân viên Vietcombank quanh mức 22,4 triệu đồng (với mức lợi nhuận công bố là 5.700 tỷ đồng năm 2011, tăng 4% so với năm 2010); Vietinbank – 20,76 triệu đồng (với mức lợi nhuận 2011 lên tới hơn 8.100 tỉ đồng, tăng 76% so với năm 2010, đạt 159% kế hoạch); ACB – khoảng 16 triệu đồng và Eximbank từ 7 – 8 triệu đồng…

Theo yêu cầu của Chính phủ, việc thực hiện lộ trình giảm lãi suất cần có cơ sở khách quan, không duy ý chí, việc và cần bảo đảm hài hòa tất cả các mặt lợi ích, nhất là cần bảo đảm hạ lãi suất cho vay trên thực tế, từ đó giúp doanh nghiệp bớt khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng.

Theo NHNN, năm 2012 NHNN sẽ có chính sách phát hành các tín phiếu ngân hàng với mức lãi suất hợp lý để hút các nguồn vốn dư thừa trong xã hội; phối hợp nhịp nhàng nhiều công cụ để đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng, đảm bảo mặt bằng lãi suất phù hợp, nhưng vẫn kiểm soát được dòng tiền dư thừa, không gây áp lực lên lạm phát; NHNN cũng không chủ trương hạ lãi suất để cứu các “đại gia” chứng khoán hay BĐS.

Sau khi chủ trương áp hạ trần lãi suất huy động được công bố và lãi suất mà các NHTM thế chấp trái phiếu Chính phủ để vay vốn từ NHNN đã giảm còn 11,3% – 11,5%/năm, lập tức các NHTM đã có nhiều động thái phản ứng tích cực: Ngày 7/3/2012, NH Á Châu (ACB) đã giảm lãi suất cho vay bình quân xuống còn 18%/năm, thấp nhất là 17,5%/năm.

Đối với cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tiền để sản xuất kinh doanh, lãi suất phổ biến từ 18% – 18,5%/năm. NH Bưu điện Liên Việt cũng giảm lãi suất cho vay 1%/năm đối với doanh nghiệp vay vốn lưu động, tùy trường hợp cụ thể khách hàng có thể được vay với lãi suất 17%/năm.

Trước đó, NH Standard Chartered Việt Nam cũng đã áp dụng lãi suất tiền gửi kỳ hạn một tháng là 11,5%/năm, các kỳ hạn từ 2 – 12 tháng lãi suất cao nhất chỉ 13,75%/năm. Đặc biệt, sau BIDV hạ lãi suất vào cuối năm 2011, Vietcombank là “đại gia” thứ hai thực hiện hạ lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế, mở đầu cho chủ trương giảm lãi suất năm 2012, đối với một số đối tượng doanh nghiệp. Theo đó, ngay từ tháng 2/2012, Vietcombank đã chính thức hạ lãi suất cho vay VND với đối tượng khách hàng doanh nghiệp từ 19%/năm giảm xuống còn 17%/năm, một sốlĩnh vực, lãi suất sẽ hạ xuống 16,5%, 16%/năm. Đặc biệt, ở một số lĩnh vực và những doanh nghiệp có độ rủi ro thấp, Vietcombank sẽ cho vay ra với mức lãi suất 15 – 15,5%/năm. Trên thực tế, Agribank và VietinBank cũngđã áp dụng lãi suất cho vay 14%-15%/năm với một số doanh nghiệp xuất khẩu nông sản….Đây là tín hiệu tích cực cho thấy lãi suất đang giảm dần phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng bình quân của 7 tháng qua là gần 1%.

Tuy nhiên, cần chú ý rằng, để thực hiện đúng nguyên tắc cạnh tranh đầy đủ trong hoạt động tín dụng với các điều kiện lành mạnh và chuẩn hóa khác cả về phía các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp, cũng như quản lý nhà nước, thì không cần bất kỳ trần lãi suất nào, cả huy động lẫn cho vay tín dụng.

Đồng thời, để an toàn và hợp lý nhất, thì quá trình dỡ bỏ trần lãi suất phải được thực hiện đúng lúc, khi các điều kiện đã chín muồi và theo trình tự: dỡ bỏ trần lãi suất huy động trước khi dỡ bỏ trần lãi suất cho vay; nói cách khác, cần lựa chọn lộ trình dỡ bỏ trần lãi suất sao cho đạt được nhiều mục tiêu hài hòa nhất, vì lợi ích của doanh nghiệp và nền kinh tế chung.

Thực tế hiện nay cho thấy, việc dỡ bỏ trần lãi suất cho vay sớm, trong khi giữ và không chế trần lãi suất huy động thấp hơn mức lạm phát, đã khiến các ngân hàng đứng trước cả 2 sức ép với tất cả các hệ lụy tiêu cực của chúng:  Một mặt, các ngân hàng chịu sức ép cạnh tranh sức hấp dẫn nhằm duy trì ổn định nguồn vốn huy động. Do mức lãi suất huy động trần danh nghĩa thấp, không tuân theo nguyên tắc lãi suất thực dương, khiến các ngân hàng luôn phải tìm các chiêu “lách luật, lách trần”, tạo sự căng thẳng khả năng thanh khoản, buôn bán vốn long vòng, thiếu minh bạch và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động tín dụng; tức gây cảnh “mất nhiều hơn được” trong theo đuổi các mục tiêu điều hành lãi suất  của NHNN.

Mặt khác, các ngân hàng chịu sức ép tìm kiếm khách hàng  đủ sức chịu lãi vay cao, khiến dòng vốn tín dụng ngân hàng  bị dồn tụ, tập trung thái quá bất chấp nguyên tắc an toàn vào một số khách hàng và lĩnh vực kinh doanh, nhất là cho vay phi sản xuất. Việc “tập trung trứng vào một giỏ” kiểu đó sẽ khiến rủi ro tín dụng gia tăng và chủ trương tập trung cho vay sản xuất, nhất là cho vay tái cơ cấu, phát triển  nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ , cũng như cho vay doanh nghiệp vừu và nhỏ sẽ  chỉ là lời hiệu triệu tốt đẹp hay an ủi tinh thần cho những người trong cuộc  mà thôi.

Hơn nữa, lãi suất cho vay quá cao đang khiến hệ thống doanh nghiệp trở nên nghẹt thở, mất khả năng cạnh tranh , nguy cơ thu hẹp sản xuất, vỡ nợ và giãn thợ, tạo sức ép xã hội tăng cao đang ngày một đậm nét…Vì vậy, việc tái lập và duy trì trần lãi suất cho vay và triển khai các biện pháp đồng bộ khác để bảo vệ các doanh nghiệp và duy trì năng lực, cũng như sự bình ổn lành mạnh thị tài chính và nền sản xuất xã hội đang trở nên hiện hữu, cấp thiết hơn.

Tóm lại, xác lập trần lãi suất cho vay ở mức 15-16% và mềm hóa trần lãi suất huy động (nếu còn giữ lại), điều hành mềm dẻo có nguyên tắc để từng bước tiến tới dỡ bỏ hoàn toàn cả 2 loại trần lãi suất là việc cần làm và làm tốt hơn trong hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó, duy trì động lực tăng trưởng và tái cấu trúc  đi đôi với bình ổn kinh tế vĩ mô và bảo  đảm an sinh xã hội của Chính phủ đã nêu…

TS Nguyễn Minh Phong
Nguồn: Petrotimes.vn