Ngân hàng luôn xem trọng lợi ích của DN, DN mạnh ngân hàng mới mạnh
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Ổn định kinh tế vĩ mô tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động

Điểm lại những thành tựu kinh tế cũng như nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh – đầu tư của Chính phủ trong thời gian qua, Thống đốc cho biết, Chính phủ rất kiên định trong việc chỉ đạo điều hành ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu Quốc hội đã đề ra. Những kết quả tích cực từ sự điều hành quyết liệt, đúng hướng của Chính phủ là yếu tố quan trọng để các tổ chức quốc tế từng bước nâng cao hệ số tín nhiệm của Việt Nam và gần đây vào tháng 4/2017, Moody’s nâng triển vọng kinh tế của Việt Nam và xếp hạng 8 ngân hàng thương mại từ ổn định lên tích cực, qua đó củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam cải thiện hệ số tín nhiệm để tiếp cận thuận lợi nguồn vốn với chi phí hợp lý trên thị trường tài chính quốc tế.

Trên cơ sở định hướng, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, NHNN đã thực thi các giải pháp chủ động và phối hợp chặt chẽ với chính sách vĩ mô khác, đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức một con số, ổn định lãi suất và tỷ giá, củng cố lòng tin vào VND, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước lên mức cao nhất từ trước tới nay qua đó góp phần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phục hồi trong giai đoạn khó khăn và yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh…

Về điều hành tín dụng, cung ứng vốn ngắn và trung dài hạn cho doanh nghiệp và nền kinh tế, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp nhằm mở rộng tín dụng có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, đảm bảo cung ứng khoảng 70% vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Cơ cấu tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh với tỷ trọng khoảng 80%, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các dự án lớn, trọng tâm trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ (chiếm khoảng 50% tổng dư nợ), trong đó tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 19%; tín dụng đối với DNVVN chiếm khoảng 22% tổng dư nợ của nền kinh tế.

“Ngành Ngân hàng cũng đã triển khai mạnh mẽ các chương trình tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc một số ngành, lĩnh vực đặc thù, như cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/NĐ-CP; chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ; cho vay hỗ trợ ngư dân đóng tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP; cho vay tái canh cây cà phê; cho vay hỗ trợ nhà ở; chính sách hỗ trợ khắc phục thiên tai, ngập mặn, sự cố môi trường; Hỗ trợ tháo gỡ khó khăn đối với ngành chăn nuôi lợn,…”, Thống đốc nhấn mạnh.

Nhờ đó, hoạt động tín dụng đã đạt được những kết quả tích cực, tăng trưởng tín dụng năm 2016 đạt 18,25%. Năm 2017, tín dụng tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm; đến cuối tháng 4/2017, tín dụng tăng 5,76% so với cuối năm 2016, cao hơn so với cùng kỳ các năm gần đây; trong đó tín dụng VND tăng 5,87% và tín dụng ngoại tệ tăng 4,64%.

Chia sẻ về định hướng điều hành chính sách tín dụng trong thời gian tới, Thống đốc cho biết, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, trong đó đặc biệt là các dự án hiệu quả, các doanh nghiệp, dự án đầu tư có chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất các sản phẩm thương hiệu Việt Nam cạnh tranh được trong khu vực và thị trường thế giới; các doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp sạch, các doanh nghiệp khởi nghiệp, DNNVV. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cách thức cấp tín dụng theo hướng có sự chọn lọc ưu tiên phân loại doanh nghiệp góp phần vào các chương trình tái cơ cấu sản xuất.

Tuy nhiên, nhu cầu vốn của doanh nghiệp còn rất lớn. Mặc dù ngành Ngân hàng đã rất tích cực huy động vốn để đảm bảo đáp ứng cho nền kinh tế, song một phần lớn nguồn lực vẫn còn chưa được khơi thông, đang nằm ở các khoản nợ xấu và các tài sản bảo đảm chưa được xử lý. Vì vậy NHNN cũng đang trình Chính phủ, Quốc hội để sớm có Nghị quyết về xử lý nợ xấu, giải phóng các khoản nợ xấu này nhằm tái tạo nguồn vốn lớn để mở rộng cho vay phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nợ xấu đã được xử lý tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh.

Phấn đấu giảm lãi suất cho vay

Liên quan đến điều hành lãi suất, một vấn đề được cộng đồng doanh nghiệp rất quan tâm và đang đề nghị hạ lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, từ năm 2016, trong bối cảnh kỳ vọng lạm phát có xu hướng tăng, cầu vốn tín dụng và phát hành trái phiếu Chính phủ tiếp tục ở mức cao, tiến độ giải ngân vốn đầu tư còn thấp tạo áp lực đến cầu vốn tín dụng, song NHNN kiên trì điều hành các giải pháp phù hợp để giữ ổn định mặt bằng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Theo đó, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay diễn biến ổn định từ năm 2016 đến nay, đặc biệt từ cuối tháng 9/2016, một số TCTD đã giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm 0,5-1%/năm lãi suất cho vay đối với SXKD, lĩnh vực ưu tiên. Như vậy, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh (chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011), phù hợp với mục tiêu điều hành, diễn biến tiền tệ và lạm phát, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích của người gửi tiền – TCTD và khách hàng vay.

Theo Thống đốc NHNN, Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội của tất cả các khu vực kinh tế đều ở mức cao, kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định nhưng các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững, kỳ vọng lạm phát còn cao và dễ biến động, xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, đồng thời thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển đồng bộ dẫn tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như vốn đầu tư cho phát triển kinh tế phụ thuộc lớn vào hệ thống ngân hàng,… Các yếu tố này đã ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất cho vay của TCTD.

“Tuy nhiên, so sánh số liệu với một số nước trong khu vực như Myanmar, lãi suất cho vay ở mức 13%/năm, Indonesia là 11,9%/năm, Thái Lan là 6,3%/năm, Singapore là 5,4%/năm thì mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND của Việt Nam hiện nay khoảng 6-11%/năm, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ trong khoảng 3-4% vẫn ở mức tương đối hợp lý với tương quan kinh tế vĩ mô”, Thống đốc khẳng định.

Mặc dù vậy, người đứng đầu ngành Ngân hàng cũng chia sẻ, thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều hành lãi suất ổn định, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay; đặc biệt quan tâm đến lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên, DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ cao, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Điều hành tỷ giá cũng là vấn đề được cộng đồng doanh nghiệp hết sức quan tâm, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu bởi tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thấu hiểu băn khoăn này, Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định: “Trong công tác điều hành tỷ giá, NHNN luôn thận trọng do những thay đổi của tỷ giá có thể gây các tác động khác nhau đến nhiều mặt của nền kinh tế như lạm phát, sự ổn định kinh tế vĩ mô, vay và trả nợ nước ngoài, niềm tin vào giá trị đồng Việt Nam, hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu”.

Theo đó, mặc dù năm 2016 và những tháng đầu năm 2017, điều hành tỷ giá gặp nhiều khó khăn do các biến động mạnh trên thị trường tài chính quốc tế sau sự kiện Brexit, bầu cử Tổng thống Mỹ và các chính sách mới của Donald Trump mới đắc cử, Fed tăng lãi suất. Trong nước, cung-cầu ngoại tệ kém thuận lợi, nhập siêu lớn, xu hướng đồng USD tăng giá trên thị trường quốc tế kéo theo các yếu tố đầu cơ, kỳ vọng gia tăng. Tuy nhiên, với việc chuyển sang cách thức điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, có kết hợp đồng bộ với các công cụ CSTT khác, tỷ giá VND/USD chỉ tăng bình quân khoảng 1,1-1,2%, thị trường ngoại hối trong nước ổn định hơn nhiều so với mức độ biến động khá lớn của các nước trên thế giới và khu vực.

“Tỷ giá ổn định đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ xuất khẩu tăng trưởng tốt, giúp cho các doanh nghiệp có một môi trường ổn định, chủ động trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch kinh doanh, phòng ngừa rủi ro tỷ giá; đồng thời, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và doanh nghiệp. NHNN cũng đã mua được lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đưa dự trữ ngoại hối chính thức đạt mức cao nhất từ trước đến nay; đạt được mục tiêu bước đầu trong việc chống đôla hóa”, Thống đốc Lê Minh Hưng nhấn mạnh.

Tư lệnh ngành Ngân hàng cũng cam kết, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành tỷ giá ổn định, linh hoạt, không để tỷ giá biến động gây tâm lý bất ổn trên thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà xuất khẩu, nhập khẩu, quan hệ vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, Chính phủ; đồng thời tiếp tục xem xét, xử lý các nhu cầu vay vốn ngoại tệ ngắn hạn một cách hợp lý để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn

Đặc biệt, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn.

Theo đó, NHNN tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, ngân hàng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay; đặc biệt là Thông tư số 39/2016/TT-NHNN đã đơn giản hóa một số hồ sơ, thủ tục cho vay; bổ sung nhiều quy định để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động cho vay, bảo vệ quyền lợi của người vay; nâng cao tính tự chủ trong hoạt động cho vay của TCTD, đồng thời nâng cao yêu cầu minh bạch hóa, bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay của TCTD.

NHNN cũng đã trình Chính phủ và báo cáo Bộ Chính trị Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020; trong đó, một trong các giải pháp là trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về xử lý nợ xấu và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD.

“Nếu được thông qua sớm, Nghị quyết của Quốc hội sẽ tạo điều kiện xử lý triệt để các vướng mắc khó khăn về cơ sở pháp lý hiện hành liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, các khoản nợ của các TCTD, tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, khả thi các khoản nợ xấu. Nhờ đó sẽ giải phóng khối lượng vốn lớn đang đọng lại trong các khoản nợ xấu cũng như giải phóng khối lượng tài sản thế chấp hiện nay chưa xử lý được, gây lãng phí nguồn lực xã hội, giúp các TCTD mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, đồng thời, giảm được chi phí hoạt động để có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho vay”, Thống đốc chia sẻ.

Thời gian qua, ngành Ngân hàng cũng đã rà soát, cắt giảm, bãi bỏ nhiều TTHC tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong giao dịch hành chính với NHNN, TCTD. Các TCTD cũng tích cực đổi mới thủ tục giao dịch; công bố công khai trên Trang tin điện tử các thông tin về hồ sơ tín dụng, dịch vụ, lãi suất, phí dịch vụ; quy định tiêu chuẩn chất lượng đối với các dịch vụ; cắt bỏ nhiều loại phí cho vay không cần thiết. Quy trình sản phẩm dịch vụ cho khách hàng được cải tiến thuận tiện, nhanh gọn hơn thông qua việc ứng dụng công nghệ (Internet Banking, Mobile Banking,…). Theo thống kê, thời gian, số lần giao dịch, giấy tờ cần cung cấp của khách hàng đã giảm 20-40%; Một số quy trình/sản phẩm dịch vụ đã giảm 42% số lượng bản gốc mẫu biểu, giảm 45% số lượng chữ ký khách hàng và 48% số lượng chữ ký cán bộ ngân hàng trên hồ sơ; giảm 70-75% thời gian đăng ký do khách hàng thực hiện trực tuyến…

Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả các chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp trên cả nước với nhiều giải pháp hỗ trợ trực tiếp như tăng cường cho vay mới, cơ cấu lại nợ vay, giảm lãi suất cho vay, đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, xây dựng các chương trình tín dụng cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, quy trình, thủ tục thuận tiện, minh bạch.

“Những giải pháp mà ngành Ngân hàng đã và đang triển khai cho thấy ngành Ngân hàng luôn đặt lợi ích của doanh nghiệp trong mối quan hệ với lợi ích của ngân hàng, vì doanh nghiệp phát triển thì ngân hàng mới phát triển”, Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.

Thống đốc cũng cho biết, trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các TCTD tập trung triển khai có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là DNNVV trong việc tiếp cận vốn ngân hàng, trong đó đặc biệt là cải tiến quy trình, thủ tục vay vốn; tăng cường cho vay tín chấp. Tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương đẩy mạnh triển khai chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp; đồng thời phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương liên quan xử lý triệt để những vướng mắc trong việc xử lý tài sản bảo đảm, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

PV
Nguồn: http://thoibaonganhang.vn/ngan-hang-luon-xem-trong-loi-ich-cua-dn-dn-manh-ngan-hang-moi-manh-62928.html