Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các tổ chức tín dụng – Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các tổ chức tín dụng – Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm

Phần 1. Những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành đã cản trở việc hiện thực hóa các thỏa thuận về xử lý tài sản bảo đảm

Xử lý tài sản bảo đảm là hệ quả pháp lý của hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của bên bảo đảm. Kết quả xử lý tài sản bảo đảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản), bên nhận bảo đảm (bên hưởng lợi từ việc xử lý tài sản bảo đảm) và các chủ thể khác có lợi ích liên quan (cơ quan nhà nước, người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm ngay tình)… Do quá trình xử lý tài sản bảo đảm rất dễ xảy ra các tranh chấp, bất đồng về lợi ích giữa các bên liên quan đến tài sản bảo đảm nên cần phải thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, trong đó có quy định về xử lý tài sản bảo đảm thực sự đồng bộ, hoàn thiện.

Trong thời gian qua, pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm đã góp phần tạo lập một môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản bảo đảm, giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể như sau:

1. Pháp luật dân sự hiện hành chưa tiếp cận giao dịch bảo đảm từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm nên quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm chưa được bảo vệ đầy đủ

Theo lý thuyết về vật quyền bảo đảm (quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm), người có vật quyền bảo đảm có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm khi vật quyền bảo đảm đó được công khai hóa (được đăng ký) theo quy định của pháp luật. Lý thuyết này cho phép bên có vật quyền bảo đảm (bên nhận bảo đảm) có quyền thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý ngay cả khi tài sản bảo đảm đó đang thuộc quyền chiếm giữ, kiểm soát và chi phối bởi các chủ thể khác. Tuy nhiên, các khía cạnh pháp lý về nghĩa vụ được bảo đảm và giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005 chưa được nghiên cứu, tiếp cận từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm. Do đó, quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm chưa được bảo vệ tương xứng với vị thế của chủ thể này trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, ví dụ như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý, đặc biệt là đối với tài sản bảo đảm không đăng ký quyền sở hữu. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế – luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì “Toàn bộ chế độ pháp lý hiện hành về bảo đảm nghĩa vụ có những khuyết tật kỹ thuật cơ bản, nếu được đánh giá theo các tiêu chí được thiết lập trong các hệ thống pháp luật tiên tiến. Chính do những khuyết tật đó mà việc triển khai các quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong thực tiễn gặp khó khăn. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ, trong đó có xử lý tài sản bảo đảm đòi hỏi những nỗ lực cải cách sâu rộng ngay từ gốc, từ Bộ luật Dân sự”.

2. Một số các quy định của pháp luật hiện hành thiếu cụ thể, rõ ràng đã dẫn đến những vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của giao dịch bảo đảm, gây rủi ro cho bên nhận bảo đảm

2.1. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ xác định tư cách thành viên hộ gia đình, mặc dù đây là chủ thể tham gia rất nhiều trong các giao dịch vay vốn tại ngân hàng

Một trong các căn cứ xác định giao dịch bảo đảm do hộ gia đình ký kết có hợp pháp hay không chính là xác định các thành viên của hộ gia đình – những người có quyền quyết định việc xác lập giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, vấn đề có ý nghĩa mấu chốt này lại đang được pháp luật “bỏ ngỏ”. Cụ thể là, ngoài định nghĩa về hộ gia đình tại Điều 106 Bộ luật Dân sự 2005, pháp luật hiện hành không có quy định hướng dẫn về tiêu chí, căn cứ pháp lý làm cơ sở xác định tư cách thành viên hộ gia đình. Thực tế này đã dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, việc xác định thành viên hộ gia đình phải dựa trên số lượng thành viên thực tế có trên Sổ hộ khẩu tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo đảm. Cách hiểu thứ hai lại cho rằng, việc xác định thành viên hộ gia đình phải căn cứ trên số lượng thành viên tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình. Thực tiễn cho thấy, do thiếu tiêu chí pháp lý xác định tư cách thành viên hộ gia đình và thiếu thống nhất trong các quy định của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự 2005 về việc xác định thành viên hộ gia đình có quyền ký tên vào hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình, dẫn đến rủi ro cho bên nhận bảo đảm trong quá trình nhận và xử lý tài sản bảo đảm là tài sản chung của hộ gia đình.

2.2. Pháp luật hiện hành thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy bên nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý

Về nguyên lý chung, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã giao kết, bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Tuy nhiên, do việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý đồng nghĩa với việc bên bảo đảm bị mất tài sản đó, nên bên bảo đảm thường có thái độ bất hợp tác, chây ì và tìm cách trì hoãn việc chuyển giao tài sản bảo đảm. Trước thực tế này, khoản 5 Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định về sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an đối với hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm trong vai trò “giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm”. Việc quy định vai trò giữ gìn an ninh, trật tự của Uỷ ban nhân dân và cơ quan Công an trong quá trình bên nhận bảo đảm thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm là hợp lý, nhằm tránh tình trạng “hành chính hóa” các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, hiện pháp luật chưa có các quy định về cụ thể về việc Ủy ban nhân dân và cơ quan Công an thực thi vai trò này như thế nào. Do vậy, trải qua 5 năm thi hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP cho thấy, quy định này chưa thực sự phát huy hết hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ có nhu cầu chính quyền giữ gìn an ninh trật tự trong trường hợp bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác mà quan trọng hơn là hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Vậy, cơ quan nào có thể giúp bên nhận bảo đảm thực hiện quyền năng này? Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên nhận bảo đảm chỉ có cách khởi kiện ra Tòa án đòi tài sản và cơ quan thi hành án sẽ thực hiện công việc này sau khi bản án đã tuyên của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, quá trình này thường mất rất nhiều thời gian và chi phí của bên nhận bảo đảm.

3.Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm chưa có được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các các quy định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…)

3.1. Một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là bán đấu giá tài sản. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xử lý tài sản bảo đảm rất cần sự hỗ trợ từ chính các quy định và sự hoạt động chuyên nghiệp của tổ chức đấu giá và tổ chức định giá bán tài sản. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện nay, hoạt động định giá chưa mang tính phổ biến và chuyên nghiệp nên việc xác định giá bán tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thậm chí phát sinh nhiều tranh chấp, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý tài sản bảo đảm.

3.2. Quy trình tố tụng hiện hành cũng dẫn đến khó khăn cho chủ nợ có bảo đảm trong quá trình tiếp cận tài sản bảo đảm và giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp hợp đồng bảo đảm đã được các bên ký kết theo đúng quy định của pháp luật (hợp đồng được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm), nhưng khi phát sinh tranh chấp thì Tòa án vẫn phải giải quyết theo một quy trình tố tụng chung nên dẫn đến hệ quả là tài sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án do giá trị bị giảm, bị hư hỏng, bị tẩu tán.

3.3. Các quy định hiện hành về xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm mới chỉ giới hạn trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, mà chưa đưa ra các nguyên tắc chung về xác định vị thế quyền của các chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản tài sản bảo đảm. Ví dụ: Pháp luật về quản lý thuế chưa có quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên thanh toán từ số tiền thu được do xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp nợ thuế mà chỉ quy định nguyên tắc chung: “Trường hợp tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do bên thứ ba đang nắm giữ là đối tượng của các giao dịch bảo đảm hoặc thuộc trường hợp giải quyết phá sản thì việc thu tiền, tài sản khác từ bên thứ ba được thực hiện theo quy định của pháp luật” (Điều 100 Luật Quản lý thuế 2006) và “Nếu đối tượng bị cưỡng chế không có tài sản nào khác thì cơ quan tiến hành kê biên có quyền kê biên cả tài sản của người đó đang cầm cố, thế chấp, nếu tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo. Cơ quan tiến hành kê biên có trách nhiệm thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết về việc kê biên”. (điểm 5.9g khoản 5 Mục III phần B của Thông tư số 157/2007/TT-BTC ngày 24/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế).

4. Cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ thanh toán nợ)

Việc chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm từ bên bảo đảm sang người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm bị xử lý được xem là “khâu cuối cùng”, đồng thời là “kết quả” của quá trình xử lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, mặc dù pháp luật cho phép bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo giao dịch bảo đảm đã giao kết nhưng khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, việc định giá và chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý (ví dụ: Chủ sở hữu tài sản bỏ trốn hoặc không chịu ký vào biên bản định giá tài sản hoặc không chịu ký văn bản chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua, bên nhận chính tài sản bảo đảm). Ngoài ra, kết quả xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn phụ thuộc vào cách thức giải quyết của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản khi bên nhận bảo đảm thực hiện thủ tục sang tên, trước bạ đối với tài sản bảo đảm.

Phần II. Ý kiến của các chuyên gia và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm

1. Ý kiến của các chuyên gia

1.1. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế – luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì “trong hoàn cảnh bức bách giữa một khung pháp lý bất cập, chủ nợ và cả người mắc nợ vẫn cần phải biết mình có quyền và có nghĩa vụ làm gì để giải quyết đến nơi đến chốn câu chuyện đòi nợ gai góc. Việc ban hành một Thông tư nhằm chỉ rõ những việc phải làm và được phép làm nhằm đạt mục tiêu đó, là điều cần thiết trước mắt”.

1.2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản uỷ quyền theo quy định của pháp luật về dân sự. Trong khi đó, khoản 2 Điều 109 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Do vậy, theo Luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc khối pháp chế của Ngân hàng Hàng hải thì “pháp luật không quy định rõ, nên mỗi công chứng viên, mỗi tổ chức công chứng suy luận và “quyết” một kiểu thủ tục khác nhau khi chứng nhận giao dịch hợp đồng liên quan đến tài sản của Hộ gia đình. Vì vậy, trong lĩnh vực ngân hàng, cứ 10 giao dịch thế chấp tài sản liên quan đến Hộ gia đình, thì có tới 9 vụ rơi vào tình trạng mông lung, không chắc chắn, không yên tâm, dù đã được công chứng”. Hạn chế nêu trên của pháp luật cần sớm được nghiên cứu giải quyết, vì trường hợp người sử dụng đất là hộ gia đình thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng chiếm tỷ lệ rất lớn hiện nay. 

1.3. Theo ông Dương Thanh Minh (Giám đốc Công ty xử lý nợ của Ngân hàng Bắc Á tại TP.Hồ Chí Minh) thì Các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm cần chú trọng đến việc đề cao quyền chủ động của TCTD, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo đảm quyền chủ động của TCTD khi xử lý tài sản bảo đảm, vì thực tiễn cho thấy hầu hết vụ việc nếu không thực hiện được theo thoả thuận (trong giai đoạn xử lý) đều phải khởi kiện, gây tốn kém về thời gian, chi phí, hiệu quả xử lý không cao (ví dụ, tài sản bị tẩu tán, thời gian kéo dài nên giảm sút giá trị,…), nhiều vụ việc giá trị thu hồi vốn không đáng kể, thậm chí mất vốn.

2. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

2.1. Để kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, các Bộ, ngành cần sớm ban hành Thông tư liên tịch về xử lý tài sản bảo đảm. Hiện tại, thực hiện Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về xử lý tài sản bảo đảm, trong đó tập trung giải quyết một số “điểm nghẽn” trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm hiện nay như: vấn đề thu giữ tài sản bảo đảm, về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp có sự thay đổi về hiện trạng do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư, về chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm cho người mua, người nhận chuyển nhượng… Tuy nhiên, trong khuôn khổ “chật hẹp” của một văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định, các nội dung quy định tại Thông tư này chưa thể đáp ứng hết “kỳ vọng” của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm do sự ràng buộc và hạn chế về nội dung pháp lý bởi các quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn thi hành.

2.2. Trong tiến trình hoàn thiện pháp luật, các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu, sửa đổi tổng thể, đồng bộ các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan về xử lý tài sản bảo đảm nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm trong sự hài hòa lợi ích với các chủ thể khác có liên quan, trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

Nghiên cứu, tiếp cận các vấn đề về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự dưới giác độ của các nguyên lý về vật quyền bảo đảm. Việc tiếp cận lý thuyết này cho phép bên nhận bảo đảm thực thi ngay các quyền xác lập trên tài sản bảo đảm phát sinh từ thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm đã ký kết, đồng thời giúp bên bảo đảm có khả năng tự mình xử lý khối tài sản bảo đảm và thu hồi lợi ích của mình trong thời gian nhanh nhất với thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất trong trường hợp đã đăng ký quyền phát sinh từ việc nhận tài sản bảo đảm (đăng ký vật quyền bảo đảm) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

– Rà soát để bãi bỏ những quy định không phù hợp với thực tiễn hoặc hạn chế các chủ thể thiết lập, thực hiện các giao dịch bảo đảm, ví dụ như: quy định “về giá trị của tài sản so với tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm (khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005) hay quy định giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp giữ trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 717, khoản 5 Điều 718 Bộ luật Dân sự 2005)…; bãi bỏ các quy định về giao dịch bảo đảm còn mâu thuẫn, chưa thống nhất, ví dụ như cách thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (Luật Đất đai năm 2003 quy định trong trường hợp không xử lý được theo thoả thuận thì quyền sử dụng đất được bán đấu giá, trong khi đó Bộ luật Dân sự 2005 quy định bên nhận bảo đảm phải khởi kiện tại Toà án); nghiên cứu bổ sung một số quy định nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ví dụ như: những quy định bảo vệ quyền kiểm soát tài sản thế chấp do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư hay bổ sung quy định về xác định tư cách thành viên hộ gia đình, thống nhất tên gọi và nội dung của việc người sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác của Luật Đất đai 2003 và Bộ luật Dân sự 2005, nghiên cứu bổ sung cơ chế cơ quan thi hành án tham gia vào quá trình thu giữ tài sản bảo đảm trong giai đoạn tiền tố tụng… Việc sửa đổi, bổ sung các quy định nêu trên sẽ góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý, cản trở việc thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.

– Nghiên cứu áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn nhằm rút ngắn thời gian giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, giảm chi phí xử lý tài sản bảo đảm, đồng thời giảm thiểu nguy cơ rủi ro thanh khoản do nợ xấu tăng cao. Thực tiễn cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ quan tâm đến kết quả xử lý tài sản bảo đảm mà còn quan tâm đến thời điểm thu hồi được vốn vay khi xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, “có 56 nước áp dụng quy trình tố tụng giản lược này, nhờ đó thời gian để tiến hành xử lý tài sản thế chấp ở những nước này ít hơn 50% so với những nước dùng các biện pháp xét xử khác”[1]. Trong thời gian tới cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc áp dụng thủ tục rút gọn, nhằm đẩy nhanh quá trình tiếp cận và xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

– Quy định chính xác, toàn diện thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm, góp phần đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng cơ chế thi hành án dân sự hiệu quả, đảm bảo thực thi kết quả xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian sớm nhất với chi phí thấp nhất, từ đó tạo cơ sở cho bên nhận bảo đảm được thực hiện ngay các quyền hợp pháp của mình đối với tài sản bảo đảm như: quyền thu hồi tài sản, quyền nhận chính tài sản bảo đảm, quyền bán tài sản bảo đảm…

Hồ Quang Huy – Nguyễn Quang Hương Trà
Nguồn: Cổng thông tin Bộ Tư pháp


[1]Theo ấn phẩm Môi trường kinh doanh năm 2006 do Ngân hàng thế giới và Công ty Tài chính quốc tế đồng xuất bản

[2] Nghi Thu, http://www.tapchitaichinh.vn/Trao-doi-Binh-luan/Xu-ly-no-xau-o-Viet-Nam-va-kinh-nghiem-cua-Nhat-Ban/14065.tctc