Những vụ án liên quan đến hoạt động ngân hàng: Lộ nhiều “lỗ hổng” pháp luật!
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Sau hàng loạt vụ vỡ nợ tín dụng đen xảy ra, rồi việc bầu Kiên bị bắt làm hàng loạt cổ phiếu các ngân hàng sụt giảm mạnh, các giao dịch diễn ra trong tâm thế dường như “bất ổn” đã khiến dư luận không khỏi hoang mang, lo lắng. Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi của những “tảng băng chìm’’, tìm hiểu kỹ mới thấy rằng hoạt động tín dụng-ngân hàng đang thiếu đi một nền tảng pháp lý rất quan trọng để có thể kiểm soát hiệu quả những “giao dịch nguy hiểm” hiện nay.

Những con số

Cùng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, tình hình vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng trong những năm gần đây diễn biến hết sức phức tạp. Đặc biệt là từ năm 2000 đến nay, số vụ án nghiêm trọng trong lĩnh vực này xảy ra ngày càng nhiều cả về số vụ và mức độ thiệt hại, tác động tiêu cực đến  thị trường tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, gây dư luận xấu trong xã hội.

Theo thống kê của VKSND TC, chỉ tính riêng trong năm 2010-2011, các cơ quan chức năng đã phát hiện, điều tra 69 vụ, khởi tố 40 vụ và 70 cán bộ ngân hàng, tổng số thiệt hại hơn 8.000 tỷ đồng và chỉ thu hồi được hơn 2.000 tỷ. Một số vụ lừa đảo nghiêm trọng liên tiếp xảy ra như vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản hơn 100 tỷ đồng xảy ra tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đồng Nai, đã khởi tố 7 bị can là cán bộ ngân hàng về tội vi phạm các quy định về cho vay; vụ vợ chồng Hồ Minh Hậu, Phạm Thị Ái Loan lừa đảo, chiếm đoạt gần 400 tỷ đồng của ba ngân hàng là Ngân hàng liên doanh Việt Nga, Vietcombank chi nhánh Bình Dương và Ngân hàng BIDV. Đặc biệt là vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Cty cho thuê tài chính II – Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam gây thiệt hại ước tính 1.600 tỷ đồng, đã khởi tố 5 bị can, trong đó có 5 cán bộ ngân hàng.

Hay vụ Huỳnh Thị Huyền Như, quyền Trường phòng giao dịch Ngân hàng Vietinbank chi nhánh TP HCM lừa đảo, chiếm đoạt 3.600 tỷ đồng của hơn 33 doanh nghiệp và 20 cá nhân (thực chất đây là vụ vỡ nợ tín dụng đen kiểu mới lần đầu tiên xảy ra tại Việt Nam và 3.600 tỷ đồng là con số thiệt hại, còn tổng số tiền các đối tượng đã huy động trong vụ án này lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng và vụ án này vẫn đang trong giai đoạn điều tra)… Bên cạnh những hành vi phạm tội từ tín dụng “chính danh” như trên thì hàng loạt các vụ vỡ nợ với quy mô lên đến hàng nghìn tỷ đồng, liên tiếp xảy ra thời gian qua cũng cho thấy một thực trạng đáng báo động của thị trường tài chính, tiền tệ phi chính thức này. “Tín dụng đen” đã và đang tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dưới nhiều hình thức công khai, phổ biến như: cầm cố, cho vay lãi suất cao, vay nóng, vay không cần thế chấp… từ các hiệu cầm đồ với lãi suất cao từ 3 đến 8 lần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Sự nguy hiểm và tác động tiêu cực của các hình thức vay và cho vay nặng lãi ngoài hệ thống tài chính chính thức tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro lớn. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý và chế tài hiệu quả để xử lý các hình thức này vẫn còn bỏ ngỏ.
Phải “cắt đuôi” cơ chế “sân sau”   

Qua đánh giá, tổng kết các hoạt động đấu tranh phòng chống các tội phạm trong lĩnh vực Ngân hàng cho thấy, các dạng vi phạm trong lĩnh vực này do hai nhóm đối tượng là nhóm cán bộ ngân hàng và nhóm đối tượng ngoài ngân hàng thực hiện. Những nhóm đối tượng này thường chủ động phạm tội hoặc bị mua chuộc, lôi kéo dẫn đến hành vi phạm tội hoặc dùng thủ đoạn, lừa đảo nhưng đều có sự  thông đồng cấu kết, tiếp tay của cán bộ ngân hàng như tạo dựng các hồ sơ giả, giấy tờ giả, giả mạo chữ ký khách hàng gửi tiền tiết kiệm để tham ô, lừa đảo… đặc biệt là hành vi làm giả giấy rút tiền, mạo tên khách hàng gửi tiền tiết kiệm để rút một phần tiền từ ngân hàng.

Qua những vụ lừa đảo, thất thoát tài sản liên quan tới các ngân hàng cho thấy, dù là nhân viên ngân hàng cố tình thực hiện hay do thiếu trách nhiệm gây ra hậu quả nghiêm trọng, phần lớn đều do những lỗ hổng trong nghiệp vụ của các ngân hàng. Nhiều trường hợp xảy ra do sự tiếp tay, “mách nước” của cán bộ ngân hàng móc nối với các đối tượng bên ngoài để thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt được coi là một trong những tác nhân chính đẩy cán bộ ngân hàng vào vòng tội phạm.

Và “lỗ hổng” pháp lý

Bên cạnh đó, việc để xảy ra những vi phạm trong thời gian qua là do công tác phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng còn nhiều yếu kém. Cơ chế, chính sách trong lĩnh vực này cũng như việc thanh, kiểm tra, giám sát còn sơ hở và dễ bị lợi dụng, thanh tra Ngân hàng không phát hiện kịp và xử lý nghiêm những vi phạm của các nhân viên cũng như các đối tượng ngoài xã hội… Một điều quan trọng là các quy định của pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn việc xử lý các hành vi vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này còn thiếu. Điều 163 Bộ luật Hình sự quy định về tội cho vay nặng lãi: “Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên, có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 1 đến 5 lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm”. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là cho vay “có tính chất chuyên bóc lột” và “hưởng lợi bất chính bao nhiêu”  là cho vay lãi nặng.

Hay Điều 179 Bộ luật Hình sự về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng quy định: “Người nào trong hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50  triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 7 năm: cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; cho vay quá giới hạn quy định; hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động  tín dụng”. Tương tự như Điều 163, hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “gây hậu quả nghiêm trọng” và “rất nghiêm trọng” trong trường hợp này.

Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ có 1 điều quy định xử lý vi phạm về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong khi đó, rất nhiều các hoạt động nghiệp vụ khác như đầu tư, chuyển tiền thanh toán, bảo lãnh… xảy ra vi phạm nhưng thiếu luật điều chỉnh, gây nên khoảng trống pháp lý lớn. Do đó, để ngăn chặn những nguy cơ rủi ro từ thị trường tài chính hiện nay, bên cạnh việc “siết chặt” các hoạt động quản lý thì cần phải hoàn thiện Bộ luật Hình sự đối với một số tội phạm về thuế, tài chính – kế toán, bổ sung vào Bộ luật Hình sự sửa đổi các quy định về tội phạm lĩnh vực đầu tư, chuyển tiền, bảo lãnh, thanh toán trong hoạt động các tổ chức tín dụng. Đồng thời, hướng dẫn và làm rõ các quy định liên quan đến các hình thức cho vay nặng lãi – tín dụng đen để thuận tiện cho việc xử lý.

Theo ông Nông Xuân Trường, Phó Trưởng phòng 1, Vụ 1, VKSND TC, những vụ án nổi cộm, mới xảy ra gần đây cho thấy cán bộ ngân hàng đã sử dụng các doanh nghiệp tư nhân “sân sau” để thực hiện các hành vi tham ô, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nhằm chiếm đoạt tiền của tổ chức ngân hàng và nhà nước. Điển hình như tham nhũng tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Đắc Lắk với sai phạm 1.000 tỷ đồng; Vụ Cty An Khang (Cần Thơ) chiết khấu chứng từ giả chiếm đoạt gần 300 tỷ đồng của Ngân hàng Công thương và nhiều ngân hàng khác… Điều đáng lo ngại là trong tổng 22 vụ án lớn trong hoạt động  tín dụng, tài chính-ngân hàng có thiệt hại lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, trên 3.000 lượng vàng, nhưng mới chỉ thu hồi được gần 2.000 tỷ đồng và việc phát hiện lại chủ yếu qua đơn thư tố cáo chứ không do công tác thanh tra, kiểm toán trong nội bộ của ngân hàng.

P.Thảo – B.An
Nguồn: www.phapluatxahoi.vn