Quốc hội thông qua Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý cho biết, tiếp thu ý kiến đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bổ sung nghị quyết, thông tư liên tịch của các cơ quan, tổ chức vào nhóm văn bản quy phạm pháp luật chịu sự giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng đã bổ sung quy định về việc Đoàn giám sát có thể gặp, hỏi những người liên quan đến vấn đề được giám sát. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban lâm thời và quy trình Quốc hội xem xét báo cáo kết quả điều tra cũng đã được tiếp thu, làm rõ.  

Liên quan đến thẩm quyền giám sát của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tiếp thu, chỉnh sửa lại dự thảo theo hướng đại biểu Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân không chỉ giới hạn ở địa phương nơi đại biểu ứng cử như thể hiện tại Điều 4 và Điều 54 của dự thảo Luật.

Đối với hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, dự thảo Luật lần này đã bổ sung một số quy định mang tính ổn định của Nghị quyết số 85/2014/QH13 như đối tượng lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm và hậu quả pháp lý của việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Về thời điểm, mức tín nhiệm là những vấn đề vẫn còn ý kiến khác nhau, cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để quy định phù hợp hơn, nên trước mắt tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết số 85/2014/QH13 của Quốc hội, sau một thời gian thực hiện sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá và báo cáo Quốc hội để quy định vào Luật. Đồng thời, để tránh trùng lặp trong các quy định giữa 2 văn bản, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ rà soát Nghị quyết số 85/2014/QH13 và trình Quốc hội sửa đổi cho phù hợp.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được Quốc hội thông qua gồm 10 chương và 91 điều, quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát.

Theo quy định của Luật, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát như sau: Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của chủ thể giám sát; cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ của mình, trừ thông tin thuộc bí mật nhà nước mà theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước chủ thể giám sát đó không thuộc diện được tiếp cận; báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giám sát; nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân; thực hiện kết luận, kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.

Cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát có trách nhiệm trực tiếp báo cáo, trình bày những vấn đề mà chủ thể giám sát yêu cầu; trường hợp không thể trực tiếp báo cáo, trình bày được thì ủy quyền cho cấp phó của mình.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị, yêu cầu của chủ thể giám sát thì chủ thể giám sát yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, chủ thể giám sát yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và người có liên quan.

Theo Luật này, quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát là được thông báo trước về kế hoạch, nội dung giám sát, nội dung được yêu cầu báo cáo, trả lời về vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát; Giải trình, bảo vệ tính đúng đắn trong việc thực hiện chính sách, pháp luật thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình liên quan đến nghị quyết, kết luận, kiến nghị của chủ thể giám sát; Đề nghị chủ thể giám sát xem xét lại yêu cầu, kết luận, kiến nghị giám sát liên quan đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; trong trường hợp không tán thành với yêu cầu, kết luận, kiến nghị giám sát thì tự mình hoặc báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét, kết luận về các yêu cầu, kết luận, kiến nghị đó.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.

Bảo Yến
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ