Tình hình XNK của doanh nghiệp 100% vốn trong nước có triển vọng
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Xuất khẩu ở khu vực vốn trong nước tăng mạnh

Kim ngạch xuất khẩu 02 tháng đầu năm 2014 ước đạt 21,06 tỷ USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 7,21 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,85 tỷ USD (kể cả dầu thô), tăng 11,8% so với cùng kỳ.

Đối với nhóm hàng nông sản, thủy sản, kim ngạch xuất khẩu tháng 02 ước đạt 1,37 tỷ USD, giảm 11,3% so với tháng trước và tăng 37% so với cùng kỳ năm 2013. Kim ngạch xuất khẩu 02 tháng đầu năm 2014 ước đạt 2,91 tỷ USD, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2013.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ, trong đó cao nhất là kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước đạt 1,03 tỷ USD, tăng 38,9%; tiêp đó là rau quả tăng 13,8%, nhân điều tăng 12,5%, hạt tiêu tăng 8,6%.

Giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng trong tháng 02 cũng có xu hướng tăng nhẹ so với cùng kỳ, ngoại trừ giá cà phê  giảm 11,2% và cao su giảm 24%. Lượng xuất khẩu giảm là nguyên nhân chủ yếu làm giảm kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong nhóm như sắn và các sản phẩm từ sắn ước đạt 222 triệu USD, giảm 26,8% về lượng và 25% về trị giá; cà phê ước đạt 563 triệu USD, giảm 6,4% về lượng và 16,9% về trị giá; cao su ước đạt 229 triệu USD, giảm 20,5% về lượng và 39,6% về trị giá.

– Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản

Đối với nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản, kim ngạch xuất khẩu tháng 02 ước đạt 621 triệu USD, giảm 12,9% so với tháng trước và giảm 10% so với cùng kỳ. Tính chung 02 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1,33 tỷ USD, giảm 19,5% so với cùng kỳ. Quặng và khoáng sản khác là mặt hàng duy nhất trong nhóm có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ (tăng 4,5%) do giá xuất khẩu tăng 89% so với cùng kỳ đã bù đắp phần giảm về lượng xuất khẩu. Lượng xuất khẩu than đá và dầu thô giảm mạnh so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu than đá ước đạt 145 triệu USD, giảm 21,3% về lượng và 15,7% về trị giá; xuất khẩu dầu thô ước đạt 935 triệu USD, giảm 20,8% về lượng và 23,2% về trị giá.

Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu tháng 02 ước đạt 6,74 tỷ USD, giảm 18,8% so với tháng trước và tăng 33,9% so với cùng kỳ. Tính chung 02 tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất khẩu nhóm này ước đạt 15,04 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng trong nhóm này đều có tăng trưởng dương so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ như điện thoại các loại và linh kiện ước đạt 3,3 tỷ USD, tăng 22,9%; hàng dệt và may mặc ước đạt 3,21 tỷ USD, tăng 30,1%; giày dép ước đạt 1,51 tỷ USD, tăng 27,4%; gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 884 triệu USD, tăng 20,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng ước đạt 979 triệu USD, tăng 4,4%.

Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm mạnh

Tính chung 02 tháng đầu năm 2014, kim ngạch nhập khẩu ước khoảng 20,82 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 9,06 tỷ USD, tăng 16,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 11,76 tỷ USD, tăng 17,1%.

Đối với nhóm hàng cần nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 02 ước khoảng 9,46 tỷ USD, tăng 7,4% so với tháng trước và tăng 48,7% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 02 tháng đầu năm ước khoảng 18,27 tỷ USD, chiếm 87,8% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 16,5% so với cùng kỳ.

Trong nhóm nguyên nhiên vật liệu, xăng dầu các loại và khí đốt hóa lỏng tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ. Nhập khẩu xăng dầu các loại ước 1,34 triệu tấn, trị giá 1,26 tỷ USD, tăng 37,4% về lượng và 31,5% về trị giá so với cùng kỳ; nhập khẩu khí đốt hóa lỏng ước 71 ngàn tấn, trị giá 77 triệu USD, tăng 41,5% về lượng và 49,4% về trị giá so với cùng kỳ.

Giá nhập khẩu các mặt hàng trong nhóm nhìn chung giảm nhẹ so với cùng kỳ trong khi lượng nhập khẩu tăng trưởng khá mạnh, trong đó tăng mạnh ở một số mặt hàng nông sản như ngô, lúa mỳ, đậu tương, bông.

Nhóm hàng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ gia công, sản xuất xuất khẩu có sự tăng trưởng cao so với cùng kỳ như vải các loại ước đạt 1,28 tỷ USD, tăng 26,7%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy ước đạt 620 triệu USD, tăng 39,4%; điện thoại các loại và linh kiện (trừ điện thoại di động) ước đạt 1,05 tỷ USD, tăng 8,9%.

– Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu tháng 02 ước khoảng 389 triệu USD, tăng 38,7% so với tháng trước và tăng 51,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 02 tháng đầu năm ước khoảng 670 triệu USD, chiếm 3,2% tỷ trọng nhập khẩu và tăng 15,7% so với cùng kỳ.

Đối với nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu ước khoảng 505 triệu USD, giảm 5,5% so với tháng trước và tăng 51,3% so với cùng kỳ. Những tính chung 02 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu nhóm này ước khoảng 1,04 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ. Cụ thể, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ ước tăng 36,4% về lượng và 93,4% về trị giá; trong khi đó, nhập khẩu xe máy nguyên chiếc giảm mạnh, kim ngạch nhập khẩu chỉ bằng 25% so với cùng kỳ. Nhập khẩu điện thoại di động ước đạt 204 triệu USD, tăng 40,6% so với cùng kỳ.

Kim ngạch xuất khẩu tăng 12,3%

Xét về cán cân thương mại cho thấy, nhập siêu tháng 02 ước 1,2 tỷ USD, bằng 12,5% kim ngạch xuất khẩu. Tính chung cả 02 tháng, cả nước xuất siêu ước 244 triệu USD, bằng khoảng 1,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu tháng 02 và 02 tháng đầu năm 2013 cho thấy, kim ngạch xuất khẩu tháng 02 năm 2014 giảm so với tháng 01 năm 2014 do tháng 02 là tháng có ít ngày lại có kỳ nghỉ Tết nguyên đán rơi vào những ngày đầu tháng. Tuy nhiên, nếu so sánh với tháng 02 năm 2013 thì kim ngạch xuất khẩu tăng 12,3%.

Tỷ lệ nhập siêu trong tháng 02 cao, trong khi trước đó có xuất siêu cao trong tháng 01 do các doanh nghiệp tập trung xuất khẩu để giải phóng đơn hàng trước Tết và đẩy mạnh nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong tháng 02.

Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp 100% vốn trong nước đã có sự khởi sắc, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của khối này so với cùng kỳ lần lượt là 13,2% và 16,8%.

Nguồn: http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1370586?p_page_id=2202243&pers_id=2177079&item_id=121707133&p_details=1