Trường hợp nhà thầu không được hoàn trả bảo lãnh dự thầu
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Công ty tôi xin rút 9/11 mặt hàng thuốc do không đủ năng lực cung ứng, như vậy công ty tôi mất bảo lãnh của 9 mặt hàng rút khỏi thương thảo hay mất toàn bộ bảo lãnh dự thầu?.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Độc giả Nguyễn Văn Tuấn (TP. Hà Nội) đặt câu hỏi như sau: Khoản 1, 2 Điều 30 Thông tư số 15/2019/TT-BYT (có hiệu lực ngày 1/10/2019) về bảo đảm dự thầu, nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất khi lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc quy định như sau:

“1. Thủ trưởng cơ sở y tế (hoặc bên mời thầu) phải quy định giá trị bảo đảm dự thầu bằng số tiền cụ thể trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu theo nguyên tắc sau đây:

a) Giá trị bảo đảm dự thầu của gói thầu tương đương từ 1% đến 3% giá gói thầu, đối với gói thầu quy mô nhỏ giá trị bảo đảm dự thầu từ 1% đến 1,5% giá gói thầu.

b) Trường hợp gói thầu được chia thành nhiều phần thì giá trị bảo đảm dự thầu của từng phần được thể hiện bằng giá trị cụ thể tương đương từ 1% đến 3% giá của phần đó trong giá gói thầu, đối với gói thầu quy mô nhỏ giá trị bảo đảm dự thầu từ 1% đến 1,5% giá của phần đó trong giá gói thầu.

2. Nhà thầu có thể tham gia một hoặc một số hoặc toàn bộ các phần của gói thầu. Trường hợp tham gia một số phần của gói thầu thì giá trị bảo đảm dự thầu mà nhà thầu phải bảo đảm bằng tổng giá trị bảo đảm dự thầu của các phần mà nhà thầu đó tham dự”.

Chủ đầu tư mời thầu thuốc gồm tổng gói thầu 1.155 thuốc (tương đương 1.155 phần), trong hồ sơ mời thầu ghi rõ bảo lãnh của từng phần riêng biệt. Công ty ông Tuấn tham gia 28 thuốc (tương đương 28 phần), bảo lãnh dự thầu từng phần.

Công ty tôi có 11 mặt hàng xếp hạng 1 được chủ đầu tư mời đến thương thảo trước khi ra quyết định trúng thầu, tuy nhiên công ty tôi xin rút 9 mặt hàng do không đủ năng lực cung ứng.

Xin hỏi, công ty tôi mất bảo lãnh của 9 mặt hàng rút khỏi thương thảo hay mất toàn bộ bảo lãnh dự thầu?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:

Điểm d Khoản 8 Điều 11 Luật Đấu thầu quy định một trong những trường hợp không được hoàn trả bảo lãnh dự thầu là nhà thầu không tiến hành hoặc từ chối tiến hành hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng.

Đối với vấn đề nêu của ông Tuấn, hoạt động đấu thầu được thực hiện theo quy định nêu trên.

Theo đó, trường hợp nhà thầu tham dự gói thầu chia phần (tham dự nhiều phần) và thực hiện bảo lãnh dự thầu theo từng phần thì đối với những phần mà nhà thầu từ chối thực hiện (xin rút trong quá trình thương thảo) sẽ không được hoàn trả bảo đảm dự thầu tương ứng mà không bị tịch thu bảo lãnh của tất cả các phần.