Vì sao logistics Việt Nam phát triển ì ạch?
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Nhận định này được nhiều chuyên gia đưa ra trong diễn đàn logistics và dịch vụ cảng biển Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, diễn ra hôm nay (30.3) tại TP. Vũng Tàu. 

Thiếu đồng bộ 

Hiện nay, cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm 26 sân bay, với 8 sân bay có đường băng dài 3.000m có khả năng đón nhận các máy bay lớn, 3.200 km đường sắt quốc gia, khoảng 17.300 km quốc lộ, 49 bến cảng với 217 cầu cảng.

Những con số nêu trên cho thấy, tiềm năng về cảng biển cũng như dịch vụ logistics của Việt Nam là rất lớn. Nhận thức được điều này, trong những năm gần đây, hệ thống cảng biển Việt Nam đã và đang được đầu tư xây dựng với quy mô lớn và trang thiết bị xếp dỡ hiện đại.

Việt Nam đã giành một phần lớn vốn ngân sách và nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hóa và dịch vụ logistic phát triển. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, sự đầu tư vào cảng biển trong thời gian qua chưa thực sự hiệu quả bởi mạnh ai nấy làm.

Cho đến thời điểm này, Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM, có tới 46 khu công nghiệp đang hoạt động. Riêng Bà Rịa – Vũng Tàu có 12 khu công nghiệp với diện tích trên 8.000 ha, bố trí dọc theo bờ sông Thị Vải, nằm ngay vị trí khu vực cảng Cái Mép – Thị Vải.

Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của khu vực cảng này là cơ sở hạ tầng kết với với vùng hậu phương rất yếu do tuyến huyết mạch là quốc lộ 51 đang trong quá trình nâng cấp và mở rộng, đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Vũng Tàu chỉ mới được khởi động, đường sắt TP.HCM – Biên Hòa – Vũng Tàu chưa triển khai, đặc biệt sân bay quốc tế Long Thành chưa biết khi nào mói có thể khai thác.

Đáng chú ý nhất là cả ba địa phương này hầu như còn thiếu rất nhiều kho hàng và dịch vụ cung cấp chuyên dụng. Vì vậy, theo thống kê có trên 95% lượng hàng xuất khẩu tại cảng Cái Mép – Thị Vải được vận chuyển bằng sà lan từ khu vực cảng TP.HCM và các cảng cạn (ICD).

Chính vì thế, theo thứ trưởng bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Hồng Trường, tổng chi phí logistics của Việt Nam chiếm khoảng 25% GDP (khoảng 20 tỉ USD trong năm 2010), trong khi các nước trên thế giới chỉ chiếm 8 – 15%, trong đó vận tải chiếm khoảng 50 – 60%. Việt Nam hiện được xếp thứ 53 trong hoạt động logistics (trong số 155 quốc gia) và đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN.

Tính cạnh tranh thấp 

Theo hiêp hội kho vận Việt Nam, hiện nay nước ta có khoảng 800 – 900 doanh nghiệp làm dịch vụ logistics, trong đó khu vực TP.HCM chiếm đến 600-700. Tuy nhiên, hầu hết số này chỉ có vốn từ 1 – 1,5 tỉ đồng. Chính vì thế, các doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu là làm đại lý cho các công ty lớn xuyên quốc gia của nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp trong nước chỉ mới thực hiện một số công đoạn nhỏ của quá trình hoạt động logistics.

Bên cạnh đó, năng lực cung cấp dịch vụ logistic “trọn gói” còn nhiều hạn chế, hầu như không có một nhà cung cấp dịch vụ logistics nào có khả năng cung cấp dịch vụ vận chuyển xuyên suốt trên toàn lãnh thổ Việt Nam kết nối với thị trường quốc tế với chi phí cạnh tranh, mà phải qua các nhà cung cấp dịch vụ của từng chặng. Hoạt động logistics của các công ty Việt Nam chỉ mới đáp ứng khoảng 25% thị phần, nhu cầu trong nước.

Điều này cho thấy hoạt động logistics tại Việt Nam kém phát triển và tính cạnh tranh thấp dù lợi thế vượt trội so với rất nhiều nước trên thế giới. Nếu chúng ta giảm được 1% chi phí logistics có thể dẫn đến việc tiếc kiệm nguồn lực tương đương 0,15 – 0,2% GDP.

Ông Aloysius Lim – chuyên gia cố vấn cao cấp về logistic và hàng hải Singapore, cho rằng để ngành công nghiệp vận tải biển và logistic phát triển trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng chúng ta cần có những cam kết từ phía chính phủ trong mọi hoạt động, tập trung về mặt chính sách, kết hợp tất cả các yếu tố về tiềm năng, chính sách và con người để phát triển một ngành công nghiệp quan trọng này.

CA HẢO
Nguồn: Báo Điện tử Sài gòn Tiếp thị