Về cơ chế chống chuyển giá trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

1. Thỏa thuận xác định giá trước và khả năng áp dụng trong hoạt động quản lý thuế

Chính sách quản lý thuế (QLT) đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa qua đã có những bước thay đổi tích cực cả về mặt pháp lý và thực tế ứng dụng. Về cơ bản, các quy định về xác định giá thị trường đối với sản phẩm trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết được dựa trên hướng dẫn của OECD[1], phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ thể, Thông tư 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 của Bộ Tài chính (Thông tư 66) về cơ bản đã điều chỉnh được các hành vi chuyển giá của doanh nghiệp liên kết. Việc quy định các bên liên kết đã rõ ràng, cụ thể hơn các quy định trước đây. Đặc biệt, nguồn thông tin, dữ liệu được phép sử dụng để phân tích, so sánh về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xác định giá thị trường của doanh nghiệp và cơ quan thuế, như: (i) quy định về khác biệt trọng yếu trong so sánh giao dịch liên kết với giao dịch độc lập đã được lượng hóa, không chỉ mang tính định tính như quy định trước đây, đảm bảo cho việc hiểu và áp dụng thống nhất giữa cơ quan thuế với người nộp thuế và giữa nội bộ cơ quan thuế với nhau; (ii) hướng dẫn về xác định giá thị trường đã được quy định riêng đối với trường hợp mua và trường hợp bán, đảm bảo thống nhất giữa nguyên tắc chung với việc hướng dẫn cụ thể về xác định giá thị trường; (iii) mẫu biểu kê khai thông tin giao dịch liên kết được quy định cụ thể, rõ ràng hơn, thuận tiện co việc kê khai của người nộp thuế…

Việc ban hành và thực hiện Thông tư 66 đã góp phần nâng cao hiệu quả QLT, tăng cường thu cho ngân sách nhà nước, góp phần bảo vệ lợi ích và quyền đánh thuế của quốc gia và đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp. “Nhờ có Thông tư 66, trong năm 2011, ngành thuế đã kiểm tra và truy thu khoảng 6.009 tỷ đồng tiền thuế…”[2]

Tuy nhiên, các quy định hiện hành còn hạn chế quyền hạn của cơ quan thuế, hình thức xử lý đối với doanh nghiệp có hành vi chuyển giá tránh thuế còn quá nhẹ, quy định xác định giá thị trường chưa được linh hoạt đối với một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết, quá trình thực hiện của người nộp thuế cũng như cơ quan thuế chưa thực sự thuận tiện. Các biểu hiện cụ thể là[3]:

– Việc quản lý giá giao dịch chuyển giao sản phẩm giữa các bên liên kết chưa được quy định một cách cụ thể trong luật hiện hành;

– Hành vi chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tinh vi, phức tạp, do vậy thời gian để xử lý giải quyết cho một vụ việc chuyển giá thường bị kéo dài. Một trong những khó khăn lớn, đó là căn cứ xử lý về ấn định giá vì cơ quan thuế rất khó xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường (giá thỏa thuận khách quan giữa các bên không có quan hệ liên kết). Hiện nay, việc xác định quan hệ liên kết rất khó khăn, sự mua, bán có thể diễn ra qua các khâu trung gian (ngoài các đối tượng liên kết theo quy định tại Thông tư 66) theo sự chỉ định của nhà đầu tư mà cơ quan quản lý Nhà nước chưa có văn bản để chế tài. Mặt khác, hàng hóa lại rất đa dạng, giá cả còn tùy thuộc vào uy tín nhãn hiệu, thị hiếu người tiêu dùng… Do đó, việc quy định cùng mặt hàng trong việc xác định giá cả là chưa phù hợp, cần phải có tiêu chí xác định cho từng ngành nghề cụ thể…

– Mức độ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với các trường hợp chuyển giá còn quá nhẹ, quy định chung với các hành vi vi phạm khác về thuế (quy định tại Luật QLT hiện hành, tại Nghị định số 98/2007/NĐ-CP và Thông tư số 61/2007/TT-BTC) mà chưa có hình thức xử phạt riêng, nghiêm khắc hơn nên chưa đủ sức răn đe đối với người nộp thuế có hành vi chuyển giá tránh thuế (trường hợp cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp liên kết, thực hiện điều chỉnh giá làm giảm lỗ của doanh nghiệp thì cũng không có chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với doanh nghiệp; trường hợp cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp liên kết, thực hiện điều chỉnh giá làm tăng số thuế thu nhập doanh nghiệp thì cũng chỉ xử phạt kê khai sai (10%) và phạt chậm nộp (0,05%/1 ngày chậm nộp). Các trường hợp chuyển giá dẫn tới số lỗ lũy kế bằng hoặc vượt số vốn chủ sở hữu thì cũng chưa có quy định bắt buộc người nộp thuế không được hoàn thuế giá trị gia tăng hoặc phải giải thể doanh nghiệp;

– Thanh tra thuế đối với hoạt động chuyển giá là lĩnh vực quản lý khó, phức tạp, tốn nhiều thời gian và nguồn lực để thu thập thông tin, phân tích, so sánh, loại trừ khác biệt ảnh hưởng đến đơn giá sản phẩm được chuyển giao, lựa chọn và áp dụng phương pháp xác định giá thị trường… Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành, không quy định riêng thời gian thanh tra thuế đối với hoạt động chuyển giá mà quy định chung như thời gian thanh tra thuế đối với các trường hợp thông thường khác. Hạn chế này đã dẫn tới các hiệu qủa thanh tra về giá chuyển nhượng trong giai đoạn vừa qua chưa cao;

– Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp liên kết tại Việt Nam ngày càng phổ biến, tinh vi và phức tạp. Để QLT đối với hoạt động chuyển giá đạt hiệu quả cao, cơ quan thuế cần thiết có quyền điều tra để xác định hành vi chuyển giá của người nộp thuế. Tuy nhiên, tại các văn bản pháp quy hiện hành không quy định cơ quan thuế có quyền điều tra;

– Chưa cho phép áp dụng cơ chế thỏa thuận trước giữa cơ quan thuế và người nộp thuế về giá giao dịch liên kết của người nộp thuế trong tương lai (APA);

– Quy định về kê khai thông tin giao dịch liên kết chưa thực sự giảm thiểu gánh nặng thực hiện nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp có hành vi chuyển giá thông qua các giao dịch liên kết có giá trị nhỏ sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến số thu ngân sách nhà nước và lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của Việt Nam, doanh nghiệp vẫn phải xác định giá thị trường và kê khai đối với giao dịch liên kết có giá trị nhỏ trong khi chi phí và thời gian xác định giá thị trường, kê khai với cơ quan thuế là đáng kể và không thấp hơn đối với việc xác định giá thị trường và kê khai giao dịch lớn.

Những hạn chế trên về QLT đối với hoạt động chuyển giá như nêu trên có thể do các nguyên nhân như sau:

– Việt Nam đã có quy định về việc doanh nghiệp tự tính thuế, tự khai thuế và tự chịu trách nhiệm trong việc chấp hành, tuy nhiên, ý thức tuân thủ về xác định giá thị trường của doanh nghiệp trong giai đoạn 2006-2009 rất thấp. Việc không tuân thủ kê khai thông tin giao dịch liên kết là lý do chính của việc doanh nghiệp chưa phát hiện vướng mắc về chính sách để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chính sách QLT được kịp thời;

– Việc QLT đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa quan của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chưa được coi là nhiệm vụ cấp bách, cơ quan thuế chưa có đội ngũ công chức chuyên nghiệp, chuyên sâu về lĩnh vực giá chuyển nhượng và có kinh nghiệm thực tiễn trong việc thanh tra, kiểm tra, lập hồ sơ xác định giá thị trường đối với giao dịch liên kết. Đây là nguyên nhân hạn chế trong việc rà soát vướng mắc, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách QLT đối với hoạt động chuyển giá kịp thời.

2. Một số điều khoản mới trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế

Từ các nguyên nhân gây ra các hạn chế trên, dựa vào Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã được phê duyệt, Bộ Tài chính đã soạn thảo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật QLT (Dự thảo). Bản Dự thảo có một số điều khoản mới và quan trọng như:

Các quy định áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế (APA).

Cơ quan thuế được quyền ấn định thuế dựa trên doanh thu trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế.

Doanh nghiệp phát sinh lỗ có thể bị kiểm tra định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh và mã số thuế.

Cơ quan thuế Việt Nam được phép thu thập các thông tin từ cơ quan thuế của những nước có ký kết hiệp định thuế với Việt Nam.

Cơ quan thuế được trao quyền điều tra hình sự đối với vi phạm pháp luật về thuế.

2.1. Cơ chế xác định trước về giá tính thuế (Advance Pricing Arrangement –APA)

Hiện tại, pháp luật thuế của Việt Nam chưa có quy định cho phép cơ quan thuế và người nộp thuế ký kết thực hiện APA. Dự thảo bổ sung một số điều khoản tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế tại Việt Nam. APA là một thỏa thuận có hiệu lực thi hành trong một khoảng thời gian không quá 05 năm, xác định các căn cứ tính thuế và phương pháp xác định giá thị trường của các giao dịch liên kết do cơ quan QLT xác định trước khi doanh nghiệp nộp tờ khai Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và tờ khai hải quan có liên quan.

Thực tế APA là vấn đề mới nên Bộ Tài chính đang triển khai thực hiện thí điểm cho phép một vài doanh nghiệp lớn hoạt động tại Việt Nam được ký kết và áp dụng để Bộ Tài chinh có kinh nghiệm và cơ sở lựa chọn những phương án phù hợp trước khi ban hành các quy định hướng dẫn thực hiện APA (đang thí điểm tại tập đoàn Samsung).

2.2. Ấn định thuế TNDN dựa trên doanh thu

Dự thảo cho phép cơ quan thuế được quyền ấn định thuế khi người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế (bao gồm cả quy định về xác định giá thị trường) theo phương pháp dựa trên doanh thu sử dụng tỷ lệ giá trị gia tăng hoặc tỷ suất lợi nhuận do Bộ Tài chính quy định áp dụng đối với từng ngành nghề và hoạt động kinh doanh cho từng thời kỳ nhất định.

2.3. Kiểm tra định kỳ và thu hồi giấy phép kinh doanh đối với các doanh nghiệp phát sinh lỗ

Dự thảo đề xuất đưa những doanh nghiệp có số lỗ chiếm từ 50% trở lên nhưng chưa vượt quá số vốn chủ sở hữu vào diện phải kiểm tra thuế định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh, vô hiệu hoá mã số thuế và đình chỉ việc sản xuất kinh doanh.

2.4. Mở rộng thu thập thông tin về người nộp thuế từ nguồn ở nước ngoài

Dự thảo cho phép cơ quan QLT thu thập, xử lý thông tin bao gồm cả việc thu thập và sử dụng các thông tin do cơ quan thuế của những nước đã ký kết hiệp định với Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập, nhằm phục vụ cho công tác QLT, trong đó có quản lý vấn đề chuyển giá.

2.5. Giao chức năng điều tra hình sự cho cơ quan thuế

Theo quy định của Dự thảo, cơ quan thuế được quyền điều tra hình sự về hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, nếu trốn thuế từ 100 triệu đồng Việt Nam trở lên (khoảng 4.900 Đô la Mỹ) thì người nộp thuế có thể bị điều tra và xử lý hình sự.

2.6. Thỏa thuận xác định giá trước

Từ những dự kiến sửa đổi, bổ sung một số quy định về thuế và xác định giá thị trường, Luật QLT sẽ có nội dung về thỏa thuận định giá trước. Theo đó, cơ quan thuế sẽ tham khảo và tính toán, đưa ra mức thuế rồi trao đổi với nhà đầu tư trước khi đầu tư. Khi phương thức thỏa thuận giá định trước được tuân thủ nghiêm ngặt, nguy cơ điều chỉnh chuyển giá sẽ được loại trừ. Doanh nghiệp liên quan cũng sẽ giảm bớt được thủ tục giấy tờ và tiết kiệm chi phí vì thời gian thực hiện một cuộc thanh tra chuyển giá rất dài và phải chuẩn bị rất nhiều tài liệu để xác định giá thị trường. Hơn nữa, việc dự kiến ban hành quy định về APA sẽ giúp cải thiện tính minh bạch về quy trình QLT thông qua việc tham gia của cả cơ quan thuế và người nộp thuế vào một thỏa thuận ràng buộc và giúp hai bên kiểm soát và theo dõi tốt hơn các vấn đề về xác định giá thị trường. APA không chỉ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp tuân thủ tốt hơn các quy định về xác định giá thị trường mà còn làm tăng khả năng chắc chắn của việc tuân thủ thông qua việc giảm thiểu hoặc tránh nguy cơ bị thanh tra về chuyển giá trong thời hạn áp dụng APA. APA cũng giúp ngăn ngừa việc đánh thuế trùng.

3. Điều kiện áp dụng thỏa thuận xác định giá trước

Để hiểu rõ hơn APA và việc đưa APA vào luật QLT có gì ưu việt hơn so với các cuộc thanh tra giá chuyển nhượng, chúng ta sẽ so sánh giữa APA và thanh tra giá chuyển nhượng.

– Cả APA và thanh tra giá chuyển nhượng đều nhằm mục đích xác định giá thị trường của giao dịch liên kết giữa các bên có quan hệ liên kết, nhưng thanh tra giá chuyển nhượng là xác định giá thị trường cho các năm trước còn APA là thỏa thuận giá thị trường cho các năm tiếp theo. Thanh tra giá chuyển nhượng do cơ quan thuế ấn định một mức giá thị trường cụ thể để tính thuế và người nộp thuế có nghĩa vụ chứng minh, còn APA thì có sự thỏa thuận giữa cơ quan thuế và người nộp thuế và thường sử dụng một khoảng giá để tính toán, điều này phù hợp với thông lệ quốc tế.

– Trong việc lựa chọn số liệu so sánh, thanh tra giá chuyển nhượng có thể sử dụng số liệu không công khai, số liệu được cập nhập từ hệ thống dữ liệu của ngành thuế và chỉ ngành thuế được khai thác, nhưng khi thỏa thuận xác định giá trước, đối tượng nộp thuế chỉ có thể sử dụng những thông tin được công khai và số liệu thông tin nội bộ.

Như vậy, khi so sánh APA và thanh tra giá chuyển nhượng, chúng ta dễ dàng thấy, APA được thỏa thuận trong khuôn khổ đàm phán, vì vậy nó sẽ tránh đánh thuế hai lần ngay từ đầu; đẩy nhanh quá trình hoàn tất thủ tục; tạo thuận lợi cho việc đánh thuế trên giá chuyển nhượng; giảm bớt gánh nặng về hành chính công cho doanh nghiệp; bảo đảm khả năng tiên liệu về thuế cho ban lãnh đạo công ty; cơ quan thuế chủ động hơn trong việc thu thuế vì APA có sự đảm bảo nhất định về khả năng thu.

Đó là những thuận lợi khi xác định APA. Tuy nhiên, để thực hiện APA trong thực tế, khi luật có hiệu lực áp dụng, ngành thuế và Bộ Tài chính phải có những bước chuẩn bị cụ thể, như:

– Vì APA cũng là xác định giá thị trường theo một trong năm phương pháp xác định giá thị trường, nên gốc của vấn đề cũng là so sánh giá giao dịch liên kết của các bên có quan hệ liên kết và giá thị trường. Để làm được việc này, ngành thuế cũng phải có hệ thống cơ sở dữ liệu mới có cơ sở để đàm phán, trước mắt là đàm phán với các nước đã ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Như vậy, ngành thuế và Bộ Tài chính phải có những văn bản hay những quy định cụ thể để có thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc xác định giá thị trường từ cả hai phía trong nước và nước ngoài. Đồng thời, ngành thuế cũng phải xây dựng được bộ dữ liệu chuyên phục vụ cho việc xác định giá thị trường. Đây là công việc rất khó và đòi hỏi nhiều thời gian.

– Ngành thuế cũng phải lường trước đối tượng nộp đơn APA là những đối tượng nào, chắc chắn phải là doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế và doanh nghiệp sẽ đưa ra giá thỏa thuận có lợi cho việc nộp thuế của họ trong tương lai.  

– Điều này cũng sẽ đồng nghĩa việc thanh tra giá chuyển nhượng chỉ có thể là những doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá nhưng không có thu nhập chịu thuế và khi thanh tra thì có khả năng là chỉ giảm lỗ mà không thu được thuế. Nên có cơ chế xử lý để không làm mất thời gian của ngành thuế vào những cuộc thanh tra chuyển giá rất mất thời gian và nhiều nguồn lực trong khi ngành thuế đang thiếu nhân lực trong QLT chuyên sâu.

– Để thực hiện APA, ngành thuế cũng phải thay đổi cơ cấu tổ chức của ngành, cân nhắc việc thành lập cơ quan thuế theo khu vực để  nắm bắt thông tin tốt hơn trên diện rộng. Đồng thời vấn đề Cục thuế địa phương, Thuế khu vực hay Tổng cục thuế là người ký quyết định thỏa thuận giá trước cũng là điều phải quan tâm vì nơi nào ký quyết định thì nơi đó phải tổ chức bộ máy cho phù hợp.

Nhìn chung, ngành thuế và Bộ Tài chính muốn thực hiện tốt APA thì phải chuẩn bị thật đầy đủ cơ sở thông tin, dữ liệu, cơ sở pháp lý liên quan, nếu không lại trở về như hiện trạng của công tác thanh tra giá chuyển nhượng, chúng ta có pháp luật về chuyển giá gần như tương đồng với hướng dẫn của OECD, nhưng khó thực hiện trong thực tế./.

[2] Báo cáo của Bộ Tài chính tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII, ngày 24/11/2011. 

[3]Tổng cục Thuế, Báo cáo kết quả khảo sát “Thực trạng QLT đối với hoạt động chuyển giá giữa doanh nghiệp Việt Nam với các bên liên kết giai đoạn 2006-2010”, 2011, Hà Nội.

 Võ Thanh Thuỷ – Cục thuế TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử