Đại tướng của Nhân dân – nhà lập pháp có tầm nhìn xa 
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.
“Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đánh giá cao công lao to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta suy tôn Đồng chí là Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của Đồng chí in đậm trong lòng Nhân dân, là vị tướng của Nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc… Tên tuổi của Đồng chí đã được thế giới vinh danh và Nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình ngưỡng mộ, cảm phục”[1].

Nhà chỉ huy quân sự với tài thao lược kiệt xuất

Trên lĩnh vực quân sự, thật khó có thể nói đầy đủ, trọn vẹn, chi tiết tất cả những chiến tích lớn lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông đã có bề dày xây dựng một đội quân hùng mạnh, góp phần quyết định cùng toàn dân đánh thắng hai đế quốc to và các thế lực xâm lược, lấn chiếm. Ông là người có công lao to lớn trong việc hình thành và phát triển học thuyết quân sự – đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo của Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Ông là nhà chỉ huy quân sự với tài thao lược kiệt xuất, bậc thầy về chiến lược, chiến thuật; là vị tướng cầm quân vô cùng cẩn trọng trong so sánh tương quan lực lượng và trong những điều kiện thực tế.

Trong các chiến dịch có tính quyết định, Đại tướng luôn luôn thể hiện tính quyết đoán, sắc bén và đặc biệt tài giỏi trong chỉ huy… Tất cả những tài năng, phẩm chất, trí tuệ đó đã giải thích khá rõ, vì sao trên chiến trường Điện Biên Phủ, Đại tướng lại quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Còn trong Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, Đại tướng lại phát đi mật lệnh ngày 7.4, lệnh cho tất cả các đơn vị “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Tất cả đều đi tới đại thắng lợi.

Cảm phục tài năng và nhân cách của Đại tướng, nhà nghiên cứu lịch sử của nước Anh Peter MacDonald đã viết: “Từ năm 1944 – 1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại. Với 30 năm làm Tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa có”[2].

Tuy nhiên, trong tâm niệm của Đại tướng – Tổng tư lệnh thì, “Quân đội nhân dân Việt Nam ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng… Vị tướng có công lao đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả, chỉ có Nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”[3]…

Một nhân cách lớn, hết mực khiêm tốn

Trên lĩnh vực dân sự, ở giác độ lập pháp, toàn dân, toàn quân đều biết Đại tướng huyền thoại là đại biểu Quốc hội liên tục từ Khóa I (1946 – 1960) đến hết Khóa VII (1981 – 1987). Khóa I, Đại tướng ứng cử tại tỉnh Nghệ An; các Khóa II, III, IV ứng cử tại tỉnh Quảng Bình; Khóa VI và VII ứng cử tại tỉnh Bình Trị Thiên. Khóa VI, ông là thành viên Ủy ban Dự thảo Hiến pháp.

Tuy nhiên, không phải chỉ đến khi hoạt động trong Quốc hội, chúng ta mới biết tư duy lập pháp của ông. Như đã biết, đi đón Bác từ Pắc Bó (Cao Bằng) qua Chợ Đồn (Bắc Kạn) về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang chính là đồng chí Võ Nguyên Giáp. Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 Khóa I, những người trực tiếp làm việc với Bác để chuẩn bị nội dung cho Quốc dân Đại hội Tân Trào là các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp.

Cuối tháng 7.1945, giữa lúc tình hình trong nước cũng như thế giới đang tiến triển có lợi cho cách mạng thì Bác ốm nặng (do cuộc sống quá kham khổ nơi rừng thiêng, nước độc, công việc lại căng thẳng, vắt sức). Thời gian đó đồng chí Võ Nguyên Giáp làm việc dưới làng Tân Lập, hàng ngày đều đặn lên lán Nà Lừa (nay là Nà Nưa) báo cáo công việc với Bác. Có đêm Bác yếu quá, đồng chí đã xin phép được ở lại với Bác. Đêm khuya khi tỉnh lại sau cơn sốt, Bác đã nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp khá nhiều công việc, chuẩn bị cho Quốc dân Đại hội, cho Tổng khởi nghĩa…

Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh đã báo cáo, phân tích tình hình trong nước và thế giới, nói rõ quân Đồng Minh đang thắng lớn và ngày thất bại của quân phát xít đã đến rất gần. Báo cáo nêu rõ yêu cầu cấp bách phải thành lập ngay Ủy ban Dân tộc giải phóng để sau khi giành được chính quyền sẽ trở thành Chính phủ cách mạng lâm thời. Tiếp đó, Đại hội được nghe các báo cáo về tình hình công nhân; tình hình nông dân; văn hóa, trí thức; phong trào cách mạng ở Hà Nội… Đại hội đã thảo luận sôi nổi và nhất trí cao với chủ trương khởi nghĩa trong cả nước để giành chính quyền…

Sau này, vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Quốc hội Việt Nam, trong một cuộc hội thảo, nhiều ý kiến nói rằng, chương trình nghị sự kỳ họp Quốc hội bây giờ chẳng khác gì bao nhiêu so với chương trình Quốc dân Đại hội Tân Trào; nghĩa là cũng nghe báo cáo về các lĩnh vực, đại biểu thảo luận và biểu quyết theo đa số… Tình cờ bài tham luận hội thảo của Đại tướng đã khẳng định điều đó, Đại tướng nói, “Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội Tân Trào tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cách mạng đã thành công”[4]. Thì ra ngay từ khi chưa có chính quyền, Đảng, Bác, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… đã hình dung rất rõ ràng trình tự có tính nguyên tắc của việc thành lập bộ máy nhà nước. Trước hết phải có Quốc hội; có Quốc hội rồi mới thành lập được Chính phủ và cơ quan Tư pháp…

Được nghe Đại tướng nói, chúng tôi rất khâm phục trí tuệ lập pháp uyên bác của đại tướng; sau này mới được biết Đại tướng đã nhận bằng cử nhân luật từ năm 1937 (Licence en Droit).

Trong khi tham gia làm Văn kiện Quốc hội toàn tập, có dịp đọc lại toàn bộ các văn bản tại các kỳ họp của Quốc hội từ năm 1946 đến nay, chúng tôi bắt gặp khá nhiều văn bản hoặc bài phát biểu của Đại tướng tại nghị trường, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy một dòng hoặc một lời nào Đại tướng thể hiện về bản thân mình, mà bao giờ cũng là Nhân dân, là Đảng, là Bác, là Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Ngay cả một bài hồi ký, có độ dài 22 trang in về việc làm đại biểu Quốc hội Khóa I, Đại tướng cũng chỉ nói về cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, việc xây dựng nhà nước sau Cách mạng tháng Tám và lồng vào đó là sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và trí tuệ anh minh của Bác.

Đại tướng viết: “Bác hiểu rằng, việc xây dựng nhà nước mới không chỉ bằng những lời kêu gọi. Việc giáo dục phải đi đôi với những biện pháp về tổ chức, cơ chế. Và Bác Hồ, với tầm hiểu biết về mọi mặt của mình, qua kinh nghiệm của các nước, đã cùng với Đảng bắt tay vào đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng mô hình một Nhà nước cộng hòa non trẻ. Mô hình đó như thế nào? Đó thực sự là một quá trình trăn trở, tìm tòi, vừa học, vừa làm, vừa bổ sung ngày một hoàn chỉnh”[5].

Ngay cả sáng quyền pháp luật, Đại tướng đã đề xuất và chỉ đạo soạn thảo các đạo luật quan trọng như Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960; Luật sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự năm 1962 và sửa đổi, bổ sung năm 1965; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1982 và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1982, Đại tướng cũng chỉ nói đó là sự quyết đoán của Quốc hội, của Ban soạn thảo các dự án luật. Quả thực Đại tướng là một nhân cách lớn, hết mực khiêm tốn.

Năm 1983, khi vào lăng viếng Lênin ở Quảng trường đỏ Moscow, tôi chợt nhớ mấy câu thơ đặc sắc của thi hào Mayakovsky nhưng chưa hình dung hết hình tượng, bối cảnh của những vần thơ. Đến khi được trực tiếp viếng Đại tướng và trực tiếp quan sát những dòng người, già, trẻ, gái, trai dài như sông, như suối, từ đại lộ này nối sang con phố khác, nhẫn nại nhích dần từng bước với những vẻ mặt đau đớn, bồn chồn, chờ đợi đến lượt viếng Đại tướng, tôi mới tường tận hiểu rõ nội hàm sâu sắc của mấy câu thơ đó: “Em nhỏ nghiêm trang như các cụ già/ Các cụ già khóc như em nhỏ/ Gió như người mất ngủ/ Trên đất lớn kêu gào…”.

Bây giờ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh. Song, ngay từ Kỳ họp thứ Năm, Quốc hội Khóa VI, ngày 28.5.1979, Đại tướng đã lưu ý tới công việc trọng đại này. Trên diễn đàn Quốc hội, khi trình bày ý nghĩa lớn lao của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng đã kêu gọi: “Chúng ta hãy sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”[6]. Lời kêu gọi đó càng có ý nghĩa cấp bách trong khi chúng ta đang học tập thiết thực và làm theo có hiệu quả tấm gương đạo đức của Bác kính yêu.

[1] Lời điếu trong Lễ quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 13.10.2013, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc.

[2] Xem Vietnam +, 15-8-2021 08:05 GMT +7                                                    

[3] Xem Vietnam +, 15-8-2021 08:05 GMT +7                                   

[4] Văn phòng Quốc hội, Quốc dân Đại hội Tân Trào, Hà Nội, 1995, trang 27.

[5] Hồi ký Đại biểu Quốc hội Khóa I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 15.

[6] Văn kiện Quốc hội Toàn tập, tập 5, trang 756; Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.