Nên trở lại đa sở hữu đất đai
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Dòng thời sự chủ lưu hiện nay đang tập trung thảo luận về quyền sở hữu tư liệu sản xuất của người dân, cụ thể là đất đai. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định sở hữu toàn dân về đất đai là điểm yếu chí tử của Luật Đất đai hiện hành.

Trước vụ lạm quyền để cưỡng chế, thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng (Hải Phòng) đã có một số vụ việc đáng tiếc xảy ra ở Đồ Sơn năm 2007, Thái Bình năm 1997 và cả việc cưỡng áp mô hình nông nghiệp miền Bắc vào miền Nam sau 1975 đều được dẫn ra như những trường hợp điển hình cho thấy đã đến lúc phải có cách “tiếp cận mới về đất đai”.

Trên các diễn đàn công khai, người dân đặt thẳng câu hỏi, liệu các nhà lập pháp có thể đi đến cùng trong tiến trình cải cách Luật Đất đai đã nằm trong nghị trình làm luật năm nay?

Trong ký ức của nhiều người, Việt Nam đã từng thực hiện mô hình đa sở hữu đối với ruộng đất ngay khi lập quốc và điều này được thể hiện rất rõ trong các Hiến pháp 1946 và 1959.

Cụ thể Hiến pháp 1959 quy định hai hình thức sở hữu đất đai là sở hữu toàn dân (điều 12) và sở hữu tư nhân (các điều 14, 15, 16, 18, 19). Trong chừng mực, mô hình đã đem lại sức sống mới và lòng tin của dân vào chính sách quốc gia.

Đất đai chỉ chính thức xác lập chế độ sở hữu toàn dân từ Hiến pháp 1980 với lập luận đây là quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp quy luật của chủ nghĩa xã hội.

Nhìn lại quá khứ cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc đã rất sòng phẳng khi bộc bạch:

“Tôi giật mình vì nhận thức của mình trước đây không rõ ràng. Lúc bấy giờ không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm, đụng đến chủ nghĩa xã hội. Chúng ta làm cải cách ruộng đất, đưa ruộng về cho người cày rồi thì người làm chủ chính là nông dân. Thế mà chúng ta lại tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Người nông dân tự nhiên bị hẫng”.

Cảm giác hẫng hụt dường như sâu sắc hơn khi sau đó vài năm, trong một cuộc thảo luận trên diễn đàn Quốc hội về Luật Đất đai 1993, đại đa số đại biểu ủng hộ hạn điền 20 năm.

Mặc dù trao cho người dân năm quyền: sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất, nhưng theo ông Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường, Luật Đất đai so với các bản Hiến pháp trước đó có một điểm lùi đáng tiếc.

Hiến pháp ghi: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, còn luật chỉ giao đất cho cá nhân và chỉ giao có thời hạn. Như vậy, khái niệm sở hữu toàn dân chỉ là danh nghĩa, thực chất là Nhà nước sở hữu.

Ông Võ, một chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực đất đai tin rằng, cách tiếp cận đất đai như vậy trong nhiều trường hợp đã dẫn đến một hình thức “sở hữu toàn dân” trong Hiến pháp, “sở hữu nhà nước” trong Luật Đất đai, và “sở hữu vô chủ” trong thực tế.

Cùng chung một mối quan ngại, một đại biểu Quốc hội đã lên tiếng gay gắt tại nghị trường khi nói về quyền sở hữu đất đai rằng chế độ sở hữu này sẽ dẫn đến tình trạng “có rất nhiều Nhà nước trong một Nhà nước” khi xã, huyện, tỉnh, cấp nào cũng là Nhà nước, cũng được quyền giao đất, cho thuê đất dẫn đến việc dân không biết Nhà nước nào giao đất cho mình.

Cứ nhìn vào thực tế thì rõ, tình trạng đó đã trở thành mối lo có thực. Những năm gần đây, tình trạng không rõ ràng về quyền sở hữu đất đai đang góp phần tạo ra những bất ổn kinh tế – xã hội, trong một chừng mực, sự mập mờ đã làm hỏng những thành quả có được từ cuộc đổi mới được khởi xướng hồi năm 1986.

Nếu lấy mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (như thể hiện trong Nghị quyết 48/NQ-TW) là thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường và bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân để làm căn cứ đánh giá, có thể thấy rằng các quy định về pháp luật đất đai hiện nay đang tiếp tục là các “rào cản” đối với sự phát triển của đất nước nói chung và mỗi người dân nói riêng.

Một thông tin được công bố tại kỳ họp Quốc hội tháng 11-2011 khiến nhiều người giật mình, sau năm năm chuyển đổi diện tích sử dụng đất đã ảnh hưởng tới khoảng 950.000 lao động và khoảng 2,5 triệu người. Trung bình cứ 1ha sau khi thu hồi thì có 10 nông dân bị mất việc làm.

Chỉ tính riêng quyết định bổ sung thêm 28 sân golf đã ngốn thêm khoảng 6.000ha đất nông nghiệp. Đáng lưu ý là một số dự án sân golf chỉ chiếm 1/3 diện tích theo quy hoạch, còn lại dùng để xây biệt thự cao cấp và các dịch vụ khác cho một nhóm người có tiền và có quyền.

Trước đó, bản “Đánh giá các yếu tố rủi ro gây tham nhũng trong quản lý đất đai” do Đại sứ quán Đan Mạch, Ngân hàng Thế giới và Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam phối hợp thực hiện cũng nêu các thông tin tương tự, giai đoạn 2001-2010 đã có gần 1 triệu ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp.

Trên 5 triệu ha đất bị bỏ hoang (chiếm 62% tổng số đất bỏ hoang năm 2000) được chuyển đổi sử dụng theo nhiều mục đích khác. Số đất bị thu hồi thường rơi vào đất nông nghiệp khiến hàng vạn hộ dân mất đất, mất nơi sinh sống, mất kế sinh nhai.

“Vì không được công nhận quyền sở hữu về đất đai nên người dân không có quyền từ chối việc bị thu hồi đất. Đất đai của họ có thể bị nhà nước thu hồi với giá bồi thường rẻ cho các mục đích công. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ được nhận tiền bồi thường rất thấp so với giá thị trường. Trong nhiều trường hợp, buộc phải giao đất cho nhà nước với mức giá và điều kiện do nhà nước đưa ra”, ông Đặng Hùng Võ đúc kết sau một thời gian nghiên cứu thực địa.

Việc dễ dàng lấy đất từ tay người nghèo do những lỗ hổng trong cơ chế, do những yếu kém trong quản lý và đạo đức của một số quan chức càng thúc đẩy quá trình “phân bổ lại” nguồn lực đất đai theo hướng tích tụ đất vào tay số ít người giàu.

Những nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đã cho thấy mức chênh lệch giá rất lớn. Bình Dương đất nông nghiệp có giá 190.000 đồng/m2 nhưng bên ngoài là 30 triệu đồng, Bắc Ninh là 200.000 đồng thì ở ngoài là 35 triệu đồng/m2…

Những người am hiểu cho rằng, mức chênh cao như vậy tạo điều kiện cho địa phương thu hồi đất giao cho doanh nghiệp để thu thuế cao hơn.

Tóm lại, người dân chẳng được gì, nhà nước chẳng được gì, nơi hưởng lợi nhiều nhất là chính quyền cấp huyện. “Chế độ công hữu về đất đai đã giao độc quyền quyết định về đất đai cho chính quyền, có thể quyền quyết định đó thuộc một nhóm cá nhân lãnh đạo nhất định.

Nếu thiếu trách nhiệm giải trình và thiếu công khai, minh bạch thì nguy cơ tham nhũng có thể đến từ nhiều phía”, ông Võ khuyến cáo. Xem ra, tham nhũng đất đai đã không còn là nguy cơ mà đã biến thành quốc nạn bởi sự không rõ ràng của quyền sở hữu.

Số liệu của Thanh tra Chính phủ cung cấp cho báo chí cho hay, mỗi năm có khoảng 100.000 vụ tranh chấp, phản ánh, tố cáo, khiếu nại liên quan đến lĩnh vực đất đai.

Trên khắp các mặt báo xen lẫn những tiếng kêu bày tỏ sự bức xúc của người dân mất đất là các thông tin về việc quan chức tham lam nhân danh công hữu cưỡng ép thu hồi đất của người dân.

– Ngày 22/5/2008, TAND thành phố Hà Nội đưa ra xét xử tám vị quan đứng đầu xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai”.

Từ năm 2001 đến 2004, các vị này thu tiền của 313 hộ sử dụng đất theo nội dung “tự nguyện đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng” với tổng số tiền thu được là hơn 3,8 tỉ đồng, trong đó có hơn 3,6 tỉ đồng là thu từ việc chuyển mục đích sử dụng 101.552m2 đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất công thành đất thổ cư.

– Chiều 4/6/2008, TAND tuyên phạt tù các bị cáo là lãnh đạo Công ty TNHH mía đường Tây Ninh.

Các ông này lợi dụng chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp cấp cho dân ổn định sản xuất, đã cho người than đứng tên kê khai đất “tự khai hoang” (thực chất là đất nhà máy mượn của Lâm trường Tân Châu) để được cấp sổ đỏ, chiếm 212ha đất công.

Những tiêu cực trên đã gây nhiều bất bình trong dân, dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện kéo dài suốt 15 năm qua.

– Ngày 25/6/2007, tòa án Nhân dân TP.Hải Phòng đã tuyên án phạt tù đối với các bị cáo trong vụ tham nhũng đất đai tại Đồ Sơn (Hải Phòng) nguyên là những vị nắm giữ các vị trí chủ chốt tại địa phương.

Những quan tham này đã lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ như cố tình làm trái quy định, trục lợi bằng việc để người thân làm đơn xin giao đất ở Đồ Sơn…

– Và vừa mới đây, “quả bom Đoàn Văn Vươn” đã đưa một loạt quan chức cấp huyện bị đình chỉ công tác vì lạm quyền.

Những thực chứng này tạm đủ cho thấy, đang có một khoảng cách lớn giữa người dân và chính quyền địa phương trong cơ hội hưởng lợi từ đất đai. Điều này cũng có nghĩa cách tiếp cận đất đai lâu nay đã không còn phù hợp với xu thế phát triển của quốc gia.

Trong nhiều trường hợp người nông dân bị đẩy vào tình cảnh mất ruộng, chán ruộng và ngày một nghèo đi thì một nhóm các quan chức lại đang giàu lên nhanh chóng.

Đây chính là những lý do mà mới đây ông Nguyễn Đình Lộc và các chuyên gia có uy tín khi bàn về đất đai đại sự đã cho rằng, không thể lẩn tránh vấn đề cơ bản trong Luật Đất đai là quyền sở hữu.

Cần sửa Luật Đất đai theo hướng tạo công bằng vì, nếu không có sự thay đổi cơ bản về chế độ sở hữu, những “quả bom Đoàn Văn Vươn” vẫn có thể nổ ra.

May mắn là ngay tại Đại hội Đảng khóa XI vừa qua, đa số đại biểu cũng không nhất trí với phương hướng xác lập chế độ công hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, mà nhất trí với phương hướng lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp đối với từng giai đoạn cách mạng.

Và cương lĩnh 2011 của Đảng cộng sản Việt Nam đã không còn xác định “công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu” như Cương lĩnh 1991. Đây chính là cơ hội lớn để chúng ta quyết định lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp trong giai đoạn sắp tới.

Xin đừng quên, điều tốt đẹp của ngày mai chưa thể bắt đầu nếu ngày hôm nay chúng ta lựa chọn sai hoặc cứ giẫm chân tại chỗ. Suy cho cùng việc trở lại đa sở hữu đất đai là vô cùng quan trọng trong lần sửa đổi Hiến pháp lần này.

NGUỒN: BÁO DOANH NHÂN SÀI GÒN ĐIỆN TỬ