Định vị lại ngành lúa gạo
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Định hướng thị trường tập trung và ổn định

Định hướng kinh doanh xuất khẩu gạo của Việt Nam có sự ưu tiên cho các thị trường tập trung như Philippines, Iraq, Cuba… Hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung bao gồm các hợp đồng xuất khẩu các loại gạo trắng vào những thị trường do chính phủ nước nhập khẩu ủy quyền cho một tổ chức thực hiện.

Hiện nay, 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam đang chiếm đến trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong các thị trường lớn không phải tập trung thì đáng lưu ý có Singapore chiếm 7,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng chủ yếu để tái xuất.

Trong khi đó, 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Thái Lan chỉ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Như vậy, xuất khẩu gạo Việt Nam thể hiện định hướng nhắm đến sự ổn định với các bạn hàng lớn, trong khi Thái Lan đi theo chiến lược đa dạng hóa thị trường tiêu thụ.

Tuy nhiên, các thị trường lớn và tập trung của Việt Nam chưa hẳn đã đem lại mức giá cao. Giá gạo xuất khẩu trung bình tháng 7 -2010 đạt 473 đô la Mỹ/tấn, trong khi ở các thị trường lớn thì chỉ có giá xuất khẩu sang Philippines đạt trên 600 đô la/tấn, còn Cuba, Bangladesh ở mức xấp xỉ 400 đô la/tấn.

Mặt khác, gạo xuất khẩu sang các thị trường này chủ yếu là 15% tấm và 25% tấm. Như vậy, tập trung vào một vài thị trường lớn sẽ giúp ổn định nhưng đánh đổi bằng hạn chế sự đa dạng hóa thị trường, một lượng lớn gạo với mức giá thấp so với một lượng nhỏ nhưng có mức giá cao hơn.

Nhiều năm qua, các thị trường nhập khẩu gạo đang tồn tại một kết cấu thị trường gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Ngoại trừ lượng gạo xuất khẩu sang các thị trường tập trung được các doanh nghiệp xuất trực tiếp cho các doanh nghiệp nước sở tại được chính phủ của họ chỉ định, phần còn lại xuất khẩu sang rất nhiều thị trường từ châu Á đến châu Phi nhưng chủ yếu thông qua một số tập đoàn kinh doanh nông sản lớn có trụ sở ở Mỹ và châu Âu.

Với các ưu thế về vốn, mạng lưới kinh doanh toàn cầu, nắm bắt thông tin và khả năng dự báo tốt, các tập đoàn này có sức ảnh hưởng lớn đến thị trường và hưởng phần lớn mức lợi nhuận trong chuỗi giá trị lúa gạo trong vai trò cầu nối giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam với các nước nhập khẩu.

Bên cạnh đó, nhiều hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung chủ yếu do một số doanh nghiệp lớn thuộc tổng công ty lương thực thực hiện. Sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp này đã hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bóp nghẹt sự cạnh tranh trong nội bộ ngành.

Gạo giá thấp chiếm tỷ trọng lớn

Sự tập trung vào một vài thị trường cũng có thể là nguyên nhân chính làm cho chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam không có sự đổi mới và mức giá thấp hơn nhiều so với Thái Lan.

Cùng một chủng loại gạo của Việt Nam và Thái Lan không có sự khác biệt quá lớn về giá. Tuy nhiên, sự khác nhau về chủng loại gạo xuất khẩu của hai nước cho thấy mức giá khác nhau rất lớn.

Chẳng hạn, giá gạo thấp nhất của Thái Lan là gạo trắng cũng gần tương đương với loại gạo 5% và 25% tấm chiếm tỷ trọng cao của Việt Nam, còn gạo thơm và Mali có mức giá cao hơn rất nhiều so với đa phần gạo của Việt Nam, và ngang bằng với gạo giống Nhật vốn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Định hướng vào các thị trường tập trung, phẩm cấp gạo trung bình là nguyên nhân quan trọng khiến chủng loại gạo trong cơ cấu xuất khẩu luôn cố định cùng với rủi ro về chính sách điều hành đã buộc các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chỉ hướng đến mục tiêu ngắn hạn, chủ yếu là thương mại, thay vì phải đầu tư từ khâu sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu cho đến đa dạng hóa chủng loại gạo.

Để đa dạng hóa thị trường và hiện đại hóa chuỗi giá trị ngành gạo, yếu tố căn bản nhất là đổi mới cơ chế xuất khẩu gạo, tách chức năng chính trị như thu mua tạm trữ, đảm bảo an ninh lương thực, đảm bảo mức giá thu mua có lãi cho nông dân với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tập trung vào hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận cao nhất.

Nhà nước đầu tư xây dựng một bộ máy có nguồn lực tài chính, nhân sự và hệ thống kho dự trữ làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực, trực tiếp thu mua lúa của nông dân.

Làm được điều này sẽ giúp Nhà nước nắm được nguồn cung gạo lớn và điều tiết giữa lượng gạo xuất khẩu và tiêu thụ nội địa theo hướng có lợi nhất cho quốc gia cũng như đảm bảo mức giá thu mua đến tận tay nông dân.

Không nên quá tập trung vào một số thị trường lớn bởi có thể gặp rủi ro trong tương lai vì các nước nhập khẩu hiện nay đều đang có kế hoạch tự túc lương thực.

Mặt khác, cần tăng cường tính cạnh tranh trong kinh doanh xuất khẩu gạo bằng cách tạo lập sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Chỉ như vậy mới có nhiều vốn đầu tư đổ vào ngành kinh doanh lúa gạo, giúp hiện đại hóa ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam mới có thể có chiến lược phát triển dài hạn.

Nhà nước và doanh nghiệp cũng cần xây dựng chiến lược khai thác thị trường nội địa, nhắm vào tầng lớp dân cư đô thị với thị hiếu gạo phẩm cấp tốt, giá cao. Đây chính là cơ sở để doanh nghiệp Việt Nam từng bước đổi mới cả chuỗi giá trị lúa gạo.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam