Một số vấn đề về quy trình, thủ tục giám sát tại kỳ họp QH
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Vì QH là cơ quan lập hiến nên QH thực hiện quyền giám sát tối cao để bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước về bản chất cũng như về mục đích, hiệu quả sử dụng quyền lực. Đồng thời trong cơ chế tổ chức quyền lực ở nhà nước ta, có sự phân công, phối hợp  giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Khi đã có sự phân công thì phải theo dõi, kiểm tra để bảo đảm cho các cơ quan nhà nước làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân- vấn đề dân chủ hóa ngày càng được đề cao thì chức năng giám sát của QH ngày càng được coi trọng. 
      Trong hệ thống các phương thức giám sát của QH thì việc xem xét báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước cấp cao là đặc biệt quan trọng. Theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, tại kỳ họp cuối năm, QH xem xét, thảo luận báo cáo công tác hàng năm của UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC.
      Việc QH xem xét các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC phải được thực hiện theo thủ tục. Trước khi trình ra QH, các báo cáo Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC phải được các cơ quan của QH thẩm tra. Ví như: Ủy ban Kinh tế thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội; Ủy ban Tư pháp thẩm tra Báo cáo công tác của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng…
      Các Báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và Báo cáo thẩm tra của các cơ quan của QH phải qua một thủ tục là trình UBTVQH cho ý kiến, sau đó mới tiếp tục hoàn thiện, chỉnh lý để trình QH. Trên thực tế việc bảo đảm chất lượng các báo cáo vẫn là một thách thức lớn đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của QH. Không ít báo cáo tới sát ngày khai mạc kỳ họp QH mới được gửi cho ĐBQH, có khi còn chậm hơn. Nhiều báo cáo còn bị các ĐBQH “phê” vì  các số liệu thống kê về cùng một loại đối tượng cần quản lý trong các báo cáo có sự “vênh” nhau nhiều. 
      Về những bất cập của các báo cáo trình QH, có thể chỉ ra một số nguyên nhân:
      Trước hết là bởi tính “kế hoạch hóa” trong công tác chuẩn bị các báo cáo chưa rõ ràng. Cho đến nay, trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của QH vẫn không quy định rõ thời gian khai mạc Kỳ họp Quốc hội mà giao cho UBTVQH quyết định cụ thể thời gian để triệu tập Kỳ họp QH. Các quy định về thời gian tổ chức “Kỳ họp giữa năm”, “Kỳ họp cuối năm” chưa đủ rõ ràng để làm căn cứ cho Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC tiến hành các hoạt động thống kê số liệu theo niên độ báo cáo của năm công tác. Thực tế, sau khi UBTVQH quyết định thời gian triệu tập Kỳ họp QH sẽ phát sinh hai thủ tục liên quan đến việc chuẩn bị các báo cáo. Đó là, VPQH ban hành công văn thông báo cho VP Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành có liên quan chuẩn bị báo cáo; Thông báo cho Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC chuẩn bị báo cáo công tác, trong đó xác định rõ thời gian phải gửi báo cáo để trình UBTVQH cho ý kiến, thời gian gửi báo cáo đến ĐBQH chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Đồng thời các UB của QH ban hành công văn yêu cầu các bộ, ngành liên quan gửi báo cáo đến Ủy ban để thẩm tra trình UBTVQH cho ý kiến và sau đó là trình QH. Trong công văn của các UB còn yêu cầu rõ hơn về mốc thời gian để Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC lấy số liệu thống kê làm báo cáo. Các quy định hiện hành của pháp luật hiện hành đã làm giảm đi đáng kể tính chủ động trong việc chuẩn bị các báo cáo và từ đó mà ảnh hưởng tới chất lượng báo cáo.
      Hai là, cho đến nay chưa có một văn bản nào đề ra các yêu cầu mang tính chất “ khung” cho các cơ quan của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC làm báo cáo công tác năm trình QH tại kỳ họp. Trên thực tế, tại các phiên họp thẩm tra, các cơ quan của QH thường yêu cầu Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC điều chỉnh một số nội dung báo cáo. Và khi UBTVQH cho ý kiến, cũng có lúc phải tiếp tục điều chỉnh nữa. Tuy nhiên, khi tiến hành xem xét, thảo luận tại Kỳ họp QH, không ít ĐBQH vẫn yêu cầu thêm về các nội dung cần thể hiện trong các báo cáo. Rõ ràng, việc thiếu hụt những chuẩn mực chung trong quy định về thủ tục làm báo cáo công tác trình QH là một trong những khó khăn cho Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC.
      Ba là, sự phối hợp giữa Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trong việc chuẩn bị các báo cáo công tác trình Quốc hội có khi chưa thật chặt chẽ. Thí dụ, các số liệu về số vụ án tham nhũng được khởi tố do các cơ quan thanh tra phát hiện chuyển cho cơ quan điều tra phải là số liệu thống nhất giữa các Báo cáo của Chính phủ về phòng, chống tham nhũng với Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm và Báo cáo công tác của VKSNDTC. Sự “vênh” nhau về số liệu giữa các báo cáo công tác trình Quốc hội hoàn toàn có thể xử lý được thông qua các hoạt động phối hợp.
      Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Nội quy kỳ họp Quốc hội,  QH xem xét, thảo luận báo cáo tại Phiên họp toàn thể của QH theo trình tự  cơ bản sau: Người đứng đầu cơ quan chuẩn bị báo cáo trình bày báo cáo; Chủ nhiệm Ủy ban của QH trình bày báo cáo thẩm tra; QH thảo luận (Trước khi QH thảo luận tại phiên họp toàn thể, ĐBQH có thể thảo luận tại Tổ, tại Đoàn ĐBQH; Người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan về công tác mà ĐBQH quan tâm); QH ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.
      Về cơ bản quy trình, thủ tục xem xét báo cáo tại kỳ họp QH đã xác định được trách nhiệm của cơ quan giám sát, cơ quan chịu sự giám sát. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện quyền giám sát tối cao tại kỳ họp không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động của các cơ quan nói trên mà còn có vai trò bổ trợ của các hoạt động khác. Thí dụ, hoạt động của Chủ tọa điều khiển phiên họp xem xét báo cáo cũng rất quan trọng để phiên họp diễn ra sao cho  đúng quy định của Nội quy kỳ họp. Thời gian thảo luận tại phiên họp toàn thể của QH đối với mỗi báo cáo công tác chỉ có hạn, trong khi đó có nhiều ĐBQH đăng ký phát biểu đòi hỏi việc điều khiển phiên họp phải thật linh hoạt để vừa phát huy được quyền thảo luận của ĐBQH nhưng không bị kéo dài thời gian, và không để xảy ra tình trạng “ quá nóng” trong nghị trường do có những quan điểm khác nhau đánh giá về cùng một vấn đề, về trách nhiệm của những người  nắm giữ các chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn và cũng là để xây dựng môi  trường văn hóa chính trị trong hoạt động của QH. Điều này đòi hỏi trong thủ tục xem xét báo cáo tại phiên họp của QH cần trao cho Chủ tọa phiên họp (Chủ tịch QH) những thẩm quyền riêng, lớn hơn, những chế tài nghiêm khắc hơn để duy trì trật tự của quá trình xem xét, thảo luận.
      Để đảm bảo chất lượng hiệu quả của việc xem xét, thảo luận báo cáo tại kỳ họp Quốc hội thì một yếu tố quan trọng khác không thể không xét đến là vai trò của Đoàn thư ký kỳ họp. Trong trường hợp thảo luận tại Tổ, tại Đoàn ĐBQH thì còn có vai trò của thư ký Tổ, thư  ký Đoàn ĐBQH trong việc ghi biên bản. Tuy nhiên, các quy định hiện hành của pháp luật vẫn chưa pháp điển đầy đủ những thủ tục cần thiết khác cho hoạt động của Đoàn thư ký làm cho sự vận hành của quá trình xem xét, thảo luận các báo cáo tại Quốc hội chưa thật sự đạt được kết quả như mong muốn. Xin nêu ra một thí dụ về sự thiếu hụt thủ tục trong hoạt động tại kỳ họp. Theo thông lệ, để chuẩn bị cho việc thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn ĐBQH về các báo cáo thì rất cần một bản gợi ý để các ĐBQH tập trung thảo luận vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những nội dung được cử tri cả nước quan tâm. Và từ đó làm cơ sở cho ĐBQH lựa chọn vấn đề thảo luận tại phiên họp toàn thể. Nhưng ai là người chuẩn bị, ai là người quyết định nội dung bản gợi ý thảo luận để chuyển cho Tổ, Đoàn ĐBQH thì vẫn không rõ. Do đó, đơn vị giúp việc ở mỗi Ủy ban có những cách làm khác nhau và vì vậy khó tránh được sự cố xảy ra. Hoặc quá trình QH xem xét, thảo luận báo cáo có thể dẫn đến việc QH phải ra nghị quyết về công tác của cơ quan trình báo cáo thì cho đến nay cũng không có thủ tục cụ thể nào về việc ai soạn thảo, ai cho ý kiến và trình dự thảo loại nghị quyết này ra QH.

Nên áp dụng một thủ tục thống nhất đối với giám sát chuyên đề
      Chuyên đề giám sát là một cách gọi khác của nội dung giám sát được đưa vào chương trình giám sát của QH. Theo Luật Hoạt động giám sát của QH thì QH quyết định chương trình giám sát hàng năm của QH. Đây là đổi mới rất quan trọng, thể hiện tính công khai, minh bạch và chủ động trong hoạt động của QH và cũng là căn cứ cho nhân dân- người chủ đích thực của quyền lực thực hiện sự giám sát đối với cơ quan đại diện cao nhất của mình. 
      Qua nghiên cứu về thủ tục xây dựng chương trình giám sát của QH được quy định ở Điều 8 Luật Hoạt động giám sát của QH, có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:
      Về phạm vi chương trình giám sát: Bản thân chương trình giám sát của QH đã thể hiện việc QH cần có sự giới hạn nhất định trong việc lựa chọn các nội dung để thực hiện quyền giám sát tối cao. Bởi lẽ QH không thể và không cần thiết phải giám sát việc thực thi tất cả các chế định, các nội dung của Hiến pháp và các đạo luật. Điều này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong tổ chức quyền lực nhà nước. Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tổ chức việc thực thi hiến pháp và pháp luật và tự kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong nội bộ hệ thống tổ chức của mình. QH, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao chỉ tiến hành giám sát khi cấp cao nhất của hệ thống hành pháp, tư pháp đã làm hết khả năng mà không đáp ứng được yêu cầu của luật. Trong nhiệm kỳ QH Khóa XI, nhất là từ khi QH thông qua Luật Hoạt động giám sát thì việc xây dựng Chương trình giám sát hàng năm của QH ngày càng nề nếp. Từ năm 2004, ngoài việc thực hiện các nội dung giám sát thường xuyên, thực hiện các nội dung (chuyên đề) giám sát tại kỳ họp, QH còn giao cho UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH thực hiện giám sát 17 nội dung để báo cáo QH, năm 2005 là 10 nội dung, năm 2006 là 10 nội dung, năm 2007 là 10 nội dung…
      Với việc xây dựng Chương trình giám sát  năm 2008, QH Khóa XII đã có sự thay đổi căn bản, theo đó QH chỉ quyết định đưa vào chương trình 2 nội dung giám sát thuộc thẩm quyền giám sát tối cao tại kỳ họp QH. Cụ thể là: Tại Kỳ họp thứ Ba, QH giám sát chuyên đề Việc thực hiện chính sách pháp luật về công tác xã hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tại Kỳ họp thứ Tư, QH giám sát chuyên đề Việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các bộ, ngành, địa phương từ năm 2005 đến năm 2007. QH không quyết định các nội dung giám sát thuộc trách nhiệm của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các UB của QH mà yêu cầu các cơ quan này chủ động xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giám sát của mình theo quy định của pháp luật.
      Về chủ thể đề nghị xây dựng chương trình giám sát: Theo Luật Hoạt động giám sát của QH, chỉ có các cá nhân, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước mới có quyền đề nghị đưa nội dung giám sát vào chương trình. Ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng phải được tập hợp, phản ánh thông qua các chủ thể này. Cũng  theo quy định của Điều 8 Luật Hoạt động giám sát của QH thì cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật như Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC dù có phát hiện ra những khiếm khuyết trong thi hành pháp luật, đã làm hết khả năng của mình cũng không có quyền đề nghị QH đưa thành nội dung trong chương trình giám sát. Sự tách bạch về thẩm quyền đề nghị xây dựng chương trình giám sát giữa các chủ thể thuộc cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và tư pháp- rõ ràng là chưa thật phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực trong hoạt động của Nhà nước ta. Bởi lẽ các cơ quan như Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC nắm giữ rất nhiều thông tin về tình hình thực tiễn thi hành pháp luật và nhiều khi cũng gặp khó khăn nhưng đã không được QH trợ giúp thông qua hoạt động giám sát.
      Về chủ thể quyết định chương trình giám sát: UBTVQH là chủ thể dự kiến chương trình giám sát nhưng QH với tư cách là tập thể các ĐBQH mới có quyền thảo luận, xem xét và biểu quyết thông qua chương trình giám sát của QH. Như vậy, chỉ những nội dung nào được QH quyết định trong chương trình giám sát hàng năm  thì những nội dung đó mới được đưa vào chương trình làm việc để QH thực hiện quyền giám sát tối cao tại  mỗi kỳ họp. Trong trường hợp xảy ra những vấn đề lớn về thi hành pháp luật cần có sự giám sát kịp thời tại kỳ họp  QH thì cũng không được tiến hành vì trong Luật Hoạt động giám sát của QH không có quy định về điều chỉnh chương trình giám sát. Đây là một “lỗ hổng” của Luật Hoạt động giám sát của QH về quy trình xây dựng và quyết định chương trình giám sát hiện nay. 
      Về thời gian thực hiện chương trình: Theo Luật Hoạt động giám sát thì việc xây dựng và thực hiện chương trình được tiến hành  trong thời hạn là một năm. Với quy định về giới hạn thời gian như vậy đã làm cho mối liên hệ bổ trợ lẫn nhau giữa việc thực hiện chức năng giám sát và chức năng lập pháp thiếu chặt chẽ. Trên thực tế, để làm tốt chức năng lập pháp, QH cần nâng cao khả năng dự báo trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát. Do đó, việc  xây dựng chương trình giám sát dài hạn hơn gắn liền với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ QH là một nhu cầu cần thiết và để làm được điều này cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của QH.
      Về Quy trình, thủ tục thực hiện  giám sát chuyên đề: Từ thực tiễn giám sát chuyên đề tại Kỳ họp QH từ Khóa XI đến nay, được thực hiện theo ba loại quy trình thủ tục như sau: Loại thủ tục thứ nhất, Chính phủ có một báo cáo trình QH. Loại thủ tục thứ hai,  UBTVQH ra nghị quyết thành lập Đoàn giám sát của UBTVQH; Tại kỳ họp, QH căn cứ vào  báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH, báo cáo của Chính phủ để xem xét, thảo luận và ra nghị quyết về kết quả giám sát. Loại thủ tục thứ ba, UBTVQH không ra nghị quyết thành lập Đoàn giám sát nhưng lãnh đạo QH tổ chức một Đoàn công tác do một Phó chủ tịch QH dẫn đầu tổ chức nhiều buổi làm việc với một số Bộ, ngành, chính quyền địa phương, TANDTC, VKSNDTC. Đồng thời UBTVQH giao cho một UB của QH chủ trì giúp UBTVQH  tổng hợp kết quả giám sát của Hội đồng Dân tộc, các UB của QH về nội dung liên quan đến chuyên đề giám sát tại kỳ họp thành Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH. Tại kỳ họp Quốc hội sẽ căn cứ vào báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH và các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC để xem xét, thảo  luận và ra nghị quyết về kết quả giám sát.
      Lý giải cho việc áp dụng các loại thủ tục như trên, nhiều ý kiến cho rằng do Luật Hoạt động giám sát của QH chưa quy định rõ ràng thủ tục QH giám sát chuyên đề tại kỳ họp nên việc thực hiện quyền giám sát tối cao phải linh hoạt, tùy theo tính chất, phạm vi của chuyên đề mà QH áp dụng thủ tục thích hợp.
      Việc QH áp dụng nhiều loại thủ tục giám sát chuyên đề tại kỳ họp như hiện nay chưa phải là phương án tối ưu để thực hiện theo Luật Hoạt động giám sát của QH. Nếu cho rằng do luật quy định chưa rõ ràng thì phải giải thích luật để có căn cứ áp dụng một thủ tục thống nhất chứ không nên tùy nghi áp dụng nhiều loại thủ tục khác nhau.
      Áp dụng thủ tục nào cho phù hợp, trước hết phải xem xét bản chất của việc QH giám sát chuyên đề tại kỳ họp là gì? So sánh hình thức QH xem xét báo cáo công tác hàng năm của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và hình thức QH giám sát chuyên đề thì thấy rằng có thể thấy hai hình thức giám sát này có sự khác nhau nhất định. Đối với hình thức báo cáo công tác năm, theo luật định thì QH xem xét, đánh giá việc thực hiện toàn bộ quyền hạn, nhiệm vụ mà Hiến pháp, luật quy định cho Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Đối với giám sát chuyên đề thì QH chỉ xem xét, đánh giá theo nội dung đã được QH quyết định trong chương trình giám sát mà thôi. Do đó, phạm vi và nội dung giám sát chuyên đề thường hẹp hơn, gắn liền với việc thực hiện một luật, pháp lệnh hoặc một phần của luật. Các số liệu thống kê đưa vào báo cáo công tác năm, theo luật định là số liệu thể hiện kết quả hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trong năm. Còn các số liệu thống kê phục vụ giám sát chuyên đề thường không cố định trong thời gian hoạt động trong vòng một năm mà có thể dài hơn, tùy theo yêu cầu của QH.
      Sự khác nhau như trên không làm thay đổi thẩm quyền và trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Như vậy, hình thức QH giám sát chuyên đề tại kỳ họp, thực chất là trường hợp đặc biệt của việc QH xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Do đó, có thể căn cứ vào quy định Điều 9 Luật Hoạt động giám sát của QH về quy trình thủ tục QH xem xét báo cáo tại kỳ họp để áp dụng chung cho việc QH giám sát chuyên đề. Cụ thể là: Tại kỳ họp, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC phải báo cáo QH về nội dung giám sát chuyên đề đã được QH quyết định trong chương trình giám sát hàng năm. Và trước khi Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trình ra QH, các báo cáo này phải được phân công cho một cơ quan của QH thẩm tra, làm căn cứ cho QH xem xét, thảo luận, ra nghị quyết. Còn làm cách nào để thẩm tra có chất lượng là trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các UB của QH. Việc áp dụng quy trình thủ tục này vừa đề cao được trách nhiệm của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, đồng thời cũng phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan của QH. Mặt khác, UBTVQH với tư cách là cơ quan Thường trực của QH vẫn chỉ đạo được cơ quan chuẩn bị báo cáo, cơ quan thẩm tra và không phải trực tiếp thực hiện những công việc mang tính chuyên môn thuộc trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các UB của QH.
      Từ sự phân tích trên, xin có một số kiến nghị là: Cần sửa đổi, bổ sung  quy trình, thủ tục xây dựng chương trình giám sát theo hướng đề cao hơn nữa vai trò của UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, đồng thời cần  quy định về việc xây dựng chương trình giám sát dài hạn của Quốc hội để phát huy tốt hơn hiệu quả của hoạt động giám sát đối với việc thực hiện chức năng lập pháp. Áp dụng thống nhất một quy trình thủ tục QH giám sát chuyên đề như đối với việc QH xem xét các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Cũng cần sửa đổi, bổ sung Nội quy kỳ họp QH theo hướng phát huy hơn vai trò của Chủ tọa điều khiển phiên họp, vai trò của Đoàn thư ký kỳ họp trong việc thực hiện những công việc liên quan đến hoạt động giám sát của QH tại kỳ họp.  UBTVQH cần đưa ra các yêu cầu mang tính chất “ khung” cho Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC làm báo cáo công tác năm, thống nhất mốc thời gian lấy số liệu đưa vào các báo cáo trình QH phù hợp với thời gian khai mạc kỳ họp QH nhưng cũng đảm bảo cho cơ quan trình báo cáo, cơ quan thẩm tra có đủ thời gian cần thiết để chuẩn bị…

Nguồn: Báo Người Đại biểu nhân dân