Sửa đổi quy định đăng ký bổ sung, sửa đổi hợp đồng chuyển giao công nghệ
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

 

Cụ thể, trước đây đơn đề nghị sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ và đơn đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ cùng chung một mẫu. Tại Nghị định 103/2011/NĐ-CP, đơn đề nghị sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ có mẫu riêng.

Theo Nghị định số 133/2008/NĐ-CP trước đây, trong thành phần hồ sơ đăng ký sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ, phải nộp bản gốc hoặc bản sao có chứng thực hợp đồng sửa đổi, bổ sung bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Hợp đồng phải được các bên ký kết, đóng dấu và có chữ ký tắt của các bên, đóng dấu giáp lai vào các trang của hợp đồng và phụ lục nếu một trong các bên tham gia hợp đồng là tổ chức.

Tại Nghị định 103/2011/NĐ-CP, ngoài các quy định nêu trên còn bổ sung quy định trong trường hợp các bên tham gia chuyển giao công nghệ là tổ chức, cá nhân Việt Nam thì chỉ cần bản hợp đồng chuyển giao công nghệ sửa đổi, bổ sung bằng tiếng Việt.

Số bộ hồ sơ gốc và số bộ hồ sơ sao chụp trước đây chưa quy định cụ thể thì nay tại Nghị định 103/2011/NĐ-CP đã được quy định cụ thể. Theo đó, hồ sơ đăng ký sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ được lập thành 3 bộ, trong đó 1 bộ hồ sơ gốc và 2 bộ sao chụp.

Nghị định 103/2011/NĐ-CP còn bổ sung quy định thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ. Cụ thể, trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền theo quy định xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ, trường hợp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển giao công nghệ thì cơ quan có thẩm quyền phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Hoàng Diên

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ