Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, cần có cái nhìn thị trường hơn
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

“Nhà đầu tư nước ngoài mong muốn tham gia vào quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) của Việt Nam nhưng họ lại rất ngại vì đến giờ Việt Nam vẫn chưa xử lý được những vấn đề gây cản trở quá trình cổ phần hoá”, ông Adam Sitkoff, Giám đốc Điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) Hà Nội cho biết.

Năm nguyên nhân đã được đại diện AmCham chỉ rõ tại “Hội thảo công bố báo cáo nghiên cứu về cổ đông chiến lược trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM-Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và AmCham tổ chức ngày 30/10.

Đó là khống chế tỷ lệ sở hữu của cổ đông chiến lược nước ngoài trong một số ngành nghề và lĩnh vực; định giá doanh nghiệp và giá cổ phiếu còn bất hợp lý; nhiều doanh nghiệp nhà nước không còn có sức hấp dẫn với cổ đông chiến lược; thiếu công khai, minh bạch thông tin và đặc biệt là quy trình phức tạp và phương thức bán cổ phần thiếu linh hoạt.

“Vì vậy nhà đầu tư còn rất dè dặt khi quyết định tham gia vào quá trình cổ phần hoá của Việt Nam. Do đó, để thúc đẩy tiến trình này, Việt Nam cần nhanh chóng xử lý những nút thắt cản trở sự tham gia của nhà đầu tư”, ông Adam khuyến nghị.

Tuy vậy, theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, nguyên nhân bao trùm khiến quá trình cổ phần diễn ra chậm trễ, không đạt được những kết quả như kỳ vọng là do cách thức tiến hành cổ phần hoá của chúng ta không tiếp cận theo hướng thị trường.

“Nếu chúng ta đối với cổ phần hoá có cách nhìn thị trường hơn, tiếp cận với cái nhìn của nhà đầu tư thì mới mong có sự đổi mới trong tư duy. Khi đó chúng ta mới mong làm được cổ phần hoá vì cả 5 điểm nghẽn sẽ được giải quyết”, ông Cung nhận định.

Báo cáo được CIEM công bố dưới sự tài trợ của AmCham cho thấy, trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã thực hiện cổ phần hoá trên 4.500 doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên, chất lượng chưa cao, một số mục tiêu chưa đạt được, trong đó có mục tiêu bán cổ phần cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với mức độ thấp hơn kỳ vọng.

Kết quả bán cổ phần, theo nhận định báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, chưa đạt mục tiêu giảm vốn nhà nước và thu hút vốn đầu tư tư nhân. Đơn cử, doanh nghiệp thực hiện bán cổ phần lần đầu ra công chúng qua hình thức đấu giá (IPO) năm 2015 chỉ bán được khoảng 36% tổng số lượng cổ phần chào bán. Nhà nước vẫn giữ 81% vốn. Tỷ lệ, tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài chỉ đạt 9,5% (so với kế hoạch là 16,7%), nhà đầu tư chiến lược là 7,3% (kế hoạch là 15,8%).

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn này chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty có quy mô tương đối lớn về vốn, thị trường và năng lực sản xuất. Đây là những doanh nghiệp được đánh giá là có sức hấp dẫn lớn và có khả năng thu hút mạnh các nhà đầu tư chiến lược khi thực hiện cổ phần hoá.

Ngoài ra, báo cáo của CIEM cũng cho thấy, tổng vốn điều lệ của 46 tổng công ty được cổ phần hoá trong giai đoạn 2011-2015 đạt 171.225 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ do Nhà nước nắm giữ là 124.835 tỷ đồng chiếm 73% vốn điều lệ, phê duyệt bán cổ đông chiến lược 28.369 tỷ đồng, chiếm 16,57% tổng vốn điều lệ.

Trong số 46 doanh nghiệp nhà nước, có 14 doanh nghiệp chiếm 30,4% trong phương án cổ phần hoá không bán cho nhà đầu tư chiến lược; có 2 doanh nghiệp bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược với tỷ lệ cao hơn phương án được phê duyệt; 17 doanh nghiệp bán hết cổ phần cho cổ đông chiến lược theo tỷ lệ được phê duyệt; 9 doanh nghiệp không bán được cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược và 4 doanh nghiệp không bán hết số cổ phần được phê duyệt cho nhà đầu tư chiến lược.

Ông Phạm Đức Trung, Ban Cải cách và Phát triển doanh nghiệp (CIEM) nhận định, tỷ lệ cổ phần bán ra trong thời gian qua đạt chưa đến ½ con số được phê duyệt; trong đó, tỷ lệ bán được cho nhà đầu tư nước ngoài rất nhỏ chỉ chiếm 8,7% (4/46 tổng công ty). Hơn nữa, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài mua tỷ lệ cổ phần thấp (cao nhất là 20%).

Vì vậy, để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới, đại diện CIEM cho rằng cần phải giải quyết những nút thắt khiến cổ phần hoá bị chậm trễ.

Thứ nhất, cần có quy định rõ ràng và minh bạch về những tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chiến lược để loại bỏ những nhà đầu tư ngắn hạn hoặc không mang lại những giá trị gia tăng thực chất cho doanh nghiệp.

Thứ hai, cân nhắc mở rộng các lĩnh vực, ngành nghề nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ cổ phần chi phối, đặc biệt là những ngành nghề không ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và chủ quyền quốc gia.

Thứ ba, việc định giá doanh nghiệp cần tiến hành độc lập bởi các đơn vị có nhiều kinh nghiệm quốc tế và trong nước dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành kết hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ tư, giá cổ phần phải dựa trên giá trị thực của doanh nghiệp thay vì chỉ dựa vào giá giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Thứ năm, để cổ phần hoá được đẩy nhanh, các thông tin về doanh nghiệp cổ phần hoá cần được công khai, minh bạch để nhà đầu tư có đủ thời gian thẩm định thông tin và đánh giá giá trị của doanh nghiệp trước khi tham gia đấu thầu.