Khu vực doanh nghiệp tư nhân: Khó mạnh vì gặp 3 rào cản
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Thế nào là DN tăng trưởng?

Một DN được xem là tăng trưởng nhanh nếu như có mức tăng trưởng doanh thu đạt tối thiểu bình quân 30%/năm trong mỗi chu kỳ 4 năm hoạt động. Tuy nhiên, ngoài tiêu chí tăng doanh số nói trên, DN được xem là tăng trưởng tốt cũng phải tạo ra được công ăn, việc làm, có khả năng tiếp tục mở rộng doanh số, lợi nhuận, thị trường, giữ chân được nhân sự tài năng và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.

Vậy làm thế nào để các nhà đầu tư, người tiêu dùng và đối tác biết đến sự thành công về tăng trưởng của DN? Một giải pháp đơn giản mà hiệu quả là vinh danh các DN tăng trưởng thông qua các bảng xếp hạng.

Hiện trên thế giới, nổi lên 3 mô hình bảng xếp hạng DN tăng trưởng nhanh. Đó là mô hình của Tạp chí Inc (Inc 500), Forbes (Forbes 500) và Deloitte (Technology Fast 500).

Trong khi bảng xếp hạng Forbes 500 dựa trên việc đánh giá 5 tiêu chí cơ bản là doanh thu, lợi nhuận, tài sản, mức vốn hóa và số lao động, thì bảng xếp hạng của Inc 500 và Deloitte đều dựa trên chỉ tiêu tốc độ tăng doanh thu trong giai đoạn 4 năm gần nhất.

Để lọt vào bảng xếp hạng này, các DN phải được thành lập và có doanh thu trong năm đầu tiên của chu kỳ 4 năm.

Những rào cản đối với tăng trưởng

Hiện Việt Nam chưa có bảng xếp hạng các DN tăng trưởng. Tuy nhiên, nếu dựa trên các số liệu của các DN niêm yết trên sàn chứng khoán, có thể ước tính được tốc độ tăng trưởng của nhóm DN tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn 4 năm vừa qua với mức bình quân trên 50%/năm.

Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu DN của Vietnam Report, nhóm 500 DN tăng trưởng cao nhất cũng đã đạt mức tăng trưởng doanh số trên 30%/năm trong 4 năm vừa qua. Trong 3 khu vực DN, các DN dân doanh có hiệu quả đầu tư cao nhất (tính theo hệ số ICOR), tiếp đến là khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cuối cùng là khu vực DN nhà nước. Tuy nhiên, có rất ít DN tư nhân duy trì được tốc độ cao trong một thời gian dài để trở thành các DN lớn.

Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do ba rào cản sau.

Thứ nhất, đó là sự “bao phủ” trên diện rộng của các DN nhà nước cả về quy mô lẫn lĩnh vực hoạt động. Với khu vực DN nhà nước có quy mô lớn và hoạt động đa dạng, thì vô hình trung các DN tư nhân phải sự chịu sự cạnh tranh khốc liệt.

Nói chung, DN nhà nước nên hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên và nên tham gia vào các lĩnh vực mang tính bổ trợ cho khu vực DN tư nhân, chứ không phải thay thế các hoạt động của khu vực DN tư nhân.

Thứ hai, đó là các rào cản đến từ khâu tiếp cận các nguồn hỗ trợ tài chính. Trên thực tế, có rất nhiều DN tư nhân không hoặc rất khó vay vốn ngân hàng. Một khi không vay được vốn ngân hàng, cho dù có những lợi thế về công nghệ hoặc về nhân lực, song DN tư nhân vẫn không đủ nguồn lực tài chính để tăng đầu tư.

Thứ ba, luật pháp và việc thi hành luật cũng là rào cản đáng kể đối với sự phát triển của khu vực DN tư nhân. Việt Nam hiện có quá nhiều văn bản pháp lý quy định về lĩnh vực này, nhưng việc triển khai thực hiện lại không theo một hướng thống nhất, gây ra nhiều tranh cãi giữa các cơ quan quản lý và DN.

Như vậy, khi nền kinh tế mang tính cạnh tranh cao, các rào cản được gỡ bỏ, hệ thống pháp luật nhất quán, hiệu quả, môi trường kinh doanh – đầu tư ổn định, thị trường mang tính cạnh tranh bình đẳng, chất lượng lao động được cải thiện…, thì khi đó sẽ ngày càng nhiều DN được thành lập. Tất nhiên, sẽ có những DN phải thu hẹp quy mô hoạt động hoặc bị phá sản, nhưng về tổng thể, sẽ tạo nên một nền kinh tế năng động hơn, có khả năng cạnh tranh tốt hơn, năng suất cao hơn. Do đó sẽ làm cho DN tư nhân tăng trưởng cao hơn và bền vững hơnn

Phùng Hoàng Cơ –  Phó chủ tịch HĐQT Công ty Báo cáo đánh giá Việt Nam
Nguồn: Báo Đầu tư điện tử