Thấy gì qua chỉ số tồn kho của doanh nghiệp?
Người Việt Nam đang lo ngại sâu sắc về USD trong bối cảnh hệ thống tài chính của nước Mỹ tiếp tục ngập sâu trong rắc rối.

Trái với nỗi lo hàng tồn kho trở thành áp lực cho nền kinh tế những tháng trước đây thì lượng hàng tồn kho tại thời điểm đầu tháng 9 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm 5,5% so với cùng thời điểm năm trước, nhưng hầu hết vẫn chỉ giảm ở nhóm hàng hóa tiêu dùng, giá trị gia tăng không lớn.

Xi măng là một trong những mặt hàng có lượng tồn kho nhiều nhất. Ảnh: Tuấn Anh – TTXVN

Cụ thể, tồn kho sản xuất bơ sữa giảm 18%, sản xuất bột giấy, giấy giảm 22%, sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 26,8%. Trong khi đó, nhóm các mặt hàng giá trị lớn vẫn có lượng tồn kho tăng cao, như sản xuất ô tô, xe máy giá trị tồn kho tăng 50,4%, bia tăng 43,7%, cáp điện tăng 30,9%, xi măng, sắt thép, vôi vữa tăng gần 60%…

Về chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm 5,5% so với cùng thời điểm năm trước, Vụ trưởng Vụ Thống kê công nghiệp (Tổng cục Thống kê) Phạm Đình Thúy cho biết, đây là lần đầu tiên chỉ số này có hiện tượng giảm so với cùng kỳ của toàn ngành này. Chỉ số hàng tồn kho giảm so với cùng kỳ trong khi tháng trước tăng mạnh là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế khi chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2011 biến động trái chiều với chỉ số hàng tồn kho, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm 2010.

Theo ông Thúy, về nguyên tắc, tồn kho luôn tăng theo quy mô sản xuất mở rộng để đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa sản xuất và tồn kho, đồng thời ổn định cung cầu giai đoạn sau đó – tức là mang tính “gối đầu”. Với một nền sản xuất bình thường vào thời điểm hiện nay, chỉ số tồn kho tăng khoảng 12-15% so với cùng kỳ là hợp lý. Trường hợp tồn kho tăng cao, hay giảm thấp đều không tốt và là điều bất thường đối với nền kinh tế. Chỉ số tồn kho tăng cao thì có nguy cơ đình trệ sản xuất, nhưng nếu chỉ số này thấp thì có hai vấn đề: Một là khó đảm bảo cân đối cung cầu liên tục; hai là báo hiệu một số ngành có thể có hiện tượng DN phá sản, rút vốn hay phải chuyển đổi lĩnh vực sản xuất…

Sản phẩm thép cuộn cũng chịu chung số phận do bị tồn kho nhiều. Ảnh: Tuấn Anh – TTXVN

Thực tế chỉ số tồn kho gần đây đã thể hiện những thăng trầm, thiếu ổn định của nền kinh tế. Điều này thể hiện qua công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng qua đã có 48.700 DN giải thể, ngừng hoạt động hoặc chuyển sang ngành nghề khác do gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn duy trì sản xuất. Các DN này phải chấp nhận lỗ, thanh lý nhanh hàng hóa tồn đọng để thu hồi vốn và điều này đã làm giảm chỉ số tồn kho.

Cùng chung quan điểm trên, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa, nhận định: Với chỉ số tồn kho của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm mạnh trong tháng qua cho thấy đây là tín hiệu tốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, mức giảm này chỉ có thể trong biến động tức thời, còn xu hướng vẫn tăng ở hầu hết các ngành công nghiệp khác do sự suy yếu của hoạt động tiêu dùng và đầu tư trong nước. Hiện nay DN khó tiếp cận vốn, lãi suất quá cao, lợi nhuận thu được không đủ trả lãi, sức mua giảm sút khiến thị trường tiêu thụ giảm, vòng quay chậm lại, hàng tồn kho tăng. Riêng với ngành thép và xi măng, cùng với việc thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ với chính sách cắt giảm, đình hoãn, giãn tiến độ nhiều dự án đầu tư thì những năm gần đây, hai ngành này đã phát triển quá “nóng”, vượt cả quy hoạch ngành dẫn đến cung vượt xa cầu nên tồn kho lớn chứ không phải do sức tiêu thụ giảm.

Lý giải về điều này, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam Nguyễn Tiến Nghi cho rằng, để đối phó với lạm phát tăng cao, Chính phủ đã áp dụng nhiều giải pháp, trong đó có thắt chặt chính sách tiền tệ và tài khóa; lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở mức quá cao, khó tiếp cận; đặc biệt là nhiều công trình đầu tư công bị cắt giảm hoặc giãn tiến độ, thị trường bất động sản đóng băng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiêu thụ thép. Do đó sức tiêu thụ thép trong năm 2011 dự kiến sẽ giảm từ 7 – 10% so với năm trước. Chỉ tính đến thời điểm 26/10, phôi tồn lên đến 520.000 tấn; tồn kho thép xây dựng lên đến gần 400.000 tấn trong khi mức tồn kho cho phép chỉ khoảng 250.000 tấn. Chỉ tính riêng mức lãi mà DN phải trả cho số tồn kho này đã lên tới hơn 100 tỷ đồng/tháng. Do tiêu thụ khó khăn, hàng làm ra không bán được, nên nhiều nhà máy phải sản xuất cầm chừng để duy trì sản xuất.
Theo ông Nghi, tình hình khó khăn này chưa biết còn kéo dài đến bao lâu và hiện rất khó dự đoán được thời điểm nào thị trường mới hồi phục bởi còn phải phụ thuộc nhiều vào các chính sách điều hành của Nhà nước. Tương tự, đối với ngành xi măng, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam Nguyễn Văn Thiện cũng chia sẻ, lượng hàng tồn kho của ngành xi măng hiện khoảng 2 triệu tấn do nhiều công trình bị cắt giảm, cộng với nguồn cung dồi dào nhưng với tốc độ tiêu thụ hàng chậm như hiện nay, nên từ nay đến cuối năm, lượng tồn kho xi măng tiếp tục đứng ở mức cao.

Theo các chuyên gia, từ nay đến cuối năm, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến khó lường, ảnh hưởng mạnh đối với DN cũng như thị trường nội địa, nên rất cần sự vào cuộc với biện pháp đồng bộ, linh hoạt của các ngành chức năng. Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đang nghiên cứu khả năng bổ sung thêm kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại để tăng cường cơ hội tiêu thụ sản phẩm cho DN. Việc hạ lãi suất ngân hàng mới đây cũng là minh chứng cụ thể, tuy mới chỉ là bước đầu nhằm hỗ trợ DN có thể thoát hiểm, hướng tới sự bình ổn và sôi động trở lại của thị trường. Tuy nhiên, biện pháp tốt nhất để DN vượt qua khó khăn lúc này là tự cứu mình bằng cách cơ cấu lại DN, tổ chức lại sản xuất, điều chỉnh lại các mặt hàng, rút bớt hoạt động đầu tư mạo hiểm hoặc vay vốn quá nhiều, vượt khả năng chi trả. Các DN cũng phải tìm ra phương án đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tìm hướng xuất khẩu, thực hiện các giải pháp như tăng chiết khấu bán hàng, hỗ trợ chi phí vận chuyển và các khoản chi phí khác cho các đại lý. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng cần chỉ đạo các địa phương, đơn vị trong ngành phải thực hiện nghiêm công tác quản lý, hỗ trợ DN, đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho, tranh thủ cơ hội để mua – bán sản phẩm với nhau, ưu tiên hàng trong nước kết hợp giảm nhập khẩu nhằm hướng tới ổn định thị trường.

Văn Xuyên
Nguồn: Báo điện tử Tin tức