Trong suốt giai đoạn từ 1994 – 2006, tổng số tiền DN huy động được thông qua phát hành trái phiếu DN chỉ đạt 1.772 tỷ đồng, thì từ khi có Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu có hiệu lực, số DN huy động vốn thông qua kênh này đã tăng lên đáng kể, với mức vốn huy động sau một năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực đã lên tới 16.000 tỷ đồng. Trong 2 năm gần đây, khi việc huy động vốn thông qua ngân hàng hoặc phát hành mới cổ phần (đối với các Cty cổ phần) gặp nhiều khó khăn, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu lại được tập trung chú ý nhiều hơn.
Tuy nhiên, dù đã có những bước tiến đáng kể, nhưng tổng số vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu của DN tính đến hết năm 2008 vẫn chỉ đạt khoảng 5,84% tổng giá trị trái phiếu lưu hành. Thời gian gần đây, khi lãi suất huy động VND bắt đầu tăng trở lại, mức huy động trái phiếu DN lại tăng lên, trong đó gần đây nhất là trường hợp Cty CP Sông Đà Thăng Long có Nghị quyết Đại hội cổ đông về việc phát hành khoảng 20.000 đến 30.000 trái phiếu mệnh giá 10 triệu đồng/trái phiếu, tương đương mức huy động vốn khoảng 200 đến 300 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Cty CP FPT (FPT) dự kiến sẽ phát hành khoảng 1.800 tỷ đồng trái phiếu kèm chứng quyền mua cổ phiếu; Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) cũng đã được Ngân hàng nhà nước cấp phép phát hành 1.000 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi, dự kiến phát hành vào quý1/2010; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (SacomBank) dự kiến phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu vào khoảng cuối quý 2, đầu quý 3/2009. Trước đó, một loạt DN cũng thực hiện phát hành trái phiếu như: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển VN (BIDV) huy động 1.362 tỷ đồng mệnh giá trái phiếu kỳ hạn 10 năm; Cty CP Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà (SJS) đã phát hành thành công 500 tỷ đồng trái phiếu DN theo hình thức riêng lẻ…
Có thể nói, việc huy động trái phiếu giúp DN chủ động hơn trong việc quản lý chi phí vốn (do giảm thiểu phụ thuộc lãi suất ngân hàng), bên cạnh việc không làm pha loãng hiệu quả kinh doanh (do không phải phát hành thêm cổ phiếu). Tuy nhiên, việc huy động vốn theo hình thức này vẫn gặp một số khó khăn do thị trường sơ cấp của trái phiếu chưa thực sự phát triển. Theo thống kê tại HoSE, tổng số trái phiếu doanh nghiệp niêm yết tại sàn này là hơn 14.000 tỷ đồng, vẫn rất khiêm tốn, và mức giao dịch đạt thấp, dao động chủ yếu trong khoảng 200 đến 300 tỷ đồng/tháng, cá biệt có 2 tháng là 5/2009 và tháng 10/2008, giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp đạt trên 1.000 tỷ đồng/tháng. Bên cạnh đó, trái phiếu chuyển đổi của DN, nhất là các DN niêm yết vẫn chưa được chú ý niêm yết/giao dịch nhiều, dù rõ ràng trái phiếu này có thể biến động giá nhiều do ảnh hưởng của giá cổ phiếu niêm yết.
Nguyên nhân chính của tình trạng thiếu sôi động trên thị trường thứ cấp trái phiếu DN chủ yếu nằm ở ba vấn đề: thông tin DN, thiếu một tổ chức định mức tín nhiệm DN và DN chưa chủ động niêm yết trái phiếu để tạo thuận lợi cho giao dịch. Thực tế cho thấy, trái phiếu chính phủ luôn được giao dịch với mức lợi suất thấp hơn so với các hình thức trái phiếu DN khác nhưng vẫn thu hút đáng kể sự chú ý của nhà đầu tư, là do yếu tố rủi ro thanh toán được giảm thấp, và trái phiếu luôn được niêm yết (trên HASE). Nếu mỗi DN khi phát hành trái phiếu có được sự bảo lãnh/ sự đánh giá tín nhiệm của một tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín thì chắc chắn, mức lãi suất huy động sẽ được điều chỉnh giảm đáng kể.
![]() ![]() |
Phương Thảo
Nguồn: Báo Điện tử Diễn đàn doanh nghiệp